V. LẠC VIỆT
Trong các xóm Bách-Việt có nhóm Lạc-Việt, là tổ tiên trực tiếp của dân-tộc Việt-nam, ở miền trung châu Bắc-kỳ và phía Bắc Trung-kỳ, vì không bị quân nhà Tần chinh phục, nên giữ được độc lập lâu hơn các nhóm khác.
Người Lạc-Việt đến ở miền Bắc Việt-nam từ bao giờ, điều ấy chúng ta chưa biết đích xác được, chỉ biết rằng trước khi Triệu-Đà thần phục nước Âu-Lạc thì đã có người Lạc-Việt rồi. Theo Từ-Quảng (do Sử ký Sách ẩn dẫn) thời người Mân-Việt họ Lạc, điều ấy khiến chúng ta ngờ rằng người Lạc-Việt ở Việt-nam vốn có quan hệ với người Mân-Việt ở Phúc-kiến, mối quan hệ ấy, ô. Cl. Madrolle, trong bài Le Tonkin ancien B.E.F.E.O. XXXVII) đã nhận thấy chứng thực về nhân loại học. Có lẽ ở miền bờ biển Phúc-kiến từ xưa đã có một nhóm Việt-tộc chuyên làm nghề đánh cá và vượt biển. Họ thường dùng thuyền gỗ hay mảng tre có buồm để hàng năm, theo gió mùa, nhân gió bấc, vượt biển đến các miền diên hải ở phương Nam, đại khái miền Hải-nam, miền trung châu sông Nhị và sông Mã ở phía Bắc Việt-nam, có lẽ những người táo bạo vượt đến cả Nam-dương quần-đảo nữa, rồi đến tiết gió nồm, họ lại vượt trở về nơi căn cứ. Có lẽ sau nhiều cuộc vượt biển ấy, người Việt trong thị tộc Lạc ở Phúc-kiến đã để lại tại miền Bắc Việt-nam một ít nhóm thực dân rải rác, rồi dần dần những nhóm thực dân ấy một ngày một đông ; đến sau khi nước Việt bị nước Sở diệt thì có lẽ họ kéo nhau cả bộ lạc xuống ở miền trung châu sông Nhị và sông Mã mà xưa nay họ vẫn biết là miền đất rộng rãi phì nhiêu. Vì cũng có những người Lạc ở sót lại Phúc-kiến nên Từ-Quảng mới nói rằng người Mân-Việt là họ Lạc.
Trong những cuộc vượt biển hàng năm của nhóm người Việt-tộc ấy, họ thường tự sánh họ với một giống chim hậu điểu mà hàng năm, đến mùa lạnh, tức mùa gió bấc, họ thường thấy cùng dời miền bờ biển Giang-nam mà bay về miền Nam đồng thời với cuộc xuất dương của họ, rồi đến mùa nóng, là mùa gió nồm, các chim ấy cũng trở lại miền Giang-nam đồng thời với cuộc trở về của họ. Vì thế mà dần dần trong tâm lý họ phát sinh ra quan niệm tô-tem, khiến họ nhận giống chim lạc ấy, (giống chim lạc là một giống chim hậu điểu về loài ngỗng trời) là vật tổ, rồi cái tên vật tổ trở thành tên của thị tộc, cho nên người ta gọi nhóm Việt-tộc ấy là Lạc-Việt. Những khi họ vượt biển có lẽ họ thường giả trang mang lông chim lạc ở đầu và ở mình để trá hình thành vật tổ, họ lại trang sức thuyền của họ thành hình trạng vật tổ, và đeo khắp nơi trong thuyền những huy hiệu vật tổ, tất cả những hành động ấy là cốt để cầu cho vật tổ hộ-vệ họ được an-toàn giữa sóng gió ở biển khơi. Cái hình thuyền với những thủy thủ kỳ hình quái trạng chạm trên trống đồng Ngọc-lư mà các nhà khảo cổ học người Pháp, Gouloubew và Finot cho là có ý nghĩa tô-tem, chính là biểu hiện của các thuyền đã từng chở người Lạc-Việt ở miền Phúc-kiến xuống miền Bắc Việt-nam. Đến đây, họ vẫn giữ tên thị tộc cũ là Lạc và chính bằng tên Lạc-Việt mà từ rày các sử sách của Trung-hoa gọi họ.
Lân cận với nhóm Lạc-Việt là nhóm Tây-Việt hay Tây-Âu ở miền Đông-Nam tỉnh Quảng-tây, quân nhà Tần cũng không chinh phục được. Trong năm đạo quân nhà Tần phái đi đánh miền Bách-Việt, thì đạo thứ nhất và đạo thứ nhì do phía Nam tỉnh Hồ-nam đánh vào phía Bắc tỉnh Quảng-tây. Nhưng đến đó quân đội thiếu đường vận lương nên không tiến được như chúng ta đã biết. Quan Giám Lộc trong đạo quân thứ nhất do Đồ-thư chỉ huy phải cho quân lính đào kênh để nối sông Tương với sông Ly. Nhờ sông đào ấy mà nay người ta gọi là kênh An-hưng, quân nhà Tần tiến sâu vào đất Việt được, giết được tù trưởng Tây-Âu là Dịch-Hu-Tống. Nhưng « người Việt đều vào trong rừng sâu, ở cùng cầm thú, không chịu làm tôi mọi nhà Tần. Họ đặt người tuấn kiệt làm tướng và cứ ban đêm thì ra đánh quân Tần, giết được quan úy Đồ Thư. (Quân Tần) chết và bị thương đến mấy chục vạn người, (Nhà Tần) bèn phát những người bị đầy đến để phòng bị người Việt ». Cứ lời Lưu-An nói đó thì chúng ta thấy quân nhà Tần thất bại to ở Tây-Âu, có lẽ họ phải rút lui về miền Bắc để đóng ở phía Bắc sông Ly, tức là miền mà nhà Tần đặt quận Quế Lâm, tức Uất-lâm ngày nay. Trong khoảng mười năm nhà Tần đóng quân ở Bách Việt, người Tây-Âu cũng như người Lạc-Việt ở phía Nam vốn sống ngoài phạm vi của quân Tần.
Nhưng tại sao trong khi các nhóm Việt-tộc khác phải chịu quân Tần dầy xéo mà người Tây-Âu và Lạc-Việt lại giữ được độc lập ? Như chúng ta đã biết, sau khi tù trưởng Tây-Âu bị giết thì người Việt lui vào rừng rậm, « chọn người kiệt tuấn lên làm tướng để kháng chiến ». Chúng tôi ngờ rằng người kiệt tuấn mà Lưu-An nói đó chính là người mà sử cũ của ta gọi là Thục-Phán An-dương-vương – con vua nước Thục. Sau khi nước Tần đã diệt nước Thục ở miên Tứ-xuyên (Sử-ký chép việc ấy vào năm thứ 5 đời Chu-Thận-vương, tức năm 316) dư đảng vua Thục chạy về phía Nam. Sau khi thái tử chết ở núi Bạch-lộc thì dư đảng, có lẽ trong ấy có người con thứ của vua Thục, hẳn là theo sông Mãn-giang mà vào đất Điền-trì (tỉnh Vân-Nam ngày nay) là đất nước Sở mới chiếm. Có lẽ con vua Thục lánh thân ở đất ấy thuộc phạm vi thế lực của Sở là nước cừu địch của Tần. Có lẽ dung thân ở một vùng nào trong đất Điền-trì tiếp cảnh với đất Tây-Âu và Lạc-Việt, con vua Thục đã tự xưng là Thục-vương để tự ủy, và có lẽ đến đời sau, con Thục-vương ấy cảm thấy đất dung thân là nơi chật hẹp nghèo nàn lại tiếp cảnh với miền đất nhà Tần mới chinh phục sau khi diệt được lục quốc mà thống nhất Trung-hoa, thì không thể dễ dàng phát triển, bèn đem đồ đảng lấn đất Tây-Âu và Lạc-Việt ở miền Đông-Nam. Thục-Phán hẳn là đi theo lối con đường xe lửa Điền-Việt ngày nay, qua Khúc tịnh, Mông-tự, rồi theo sông Hồng-hà qua đến đất Lạc-Việt. Ở đó Phán cướp được trung tâm điểm đất Lạc-Việt là Mê-linh, hạ vua Lạc-Việt xuống làm tù trưởng cho giữ miền Mê-linh làm thái ấp ; có lẽ Phán thần phục được luôn các bộ lạc Tây-Âu ở miền Nam Quảng-tây, giao cho tù trưởng họ là Dịch-Hu-Tống trông nom. Sau khi đã hàng phục được cả hai nhóm Lạc-Việt và Tây-Âu, Thục-Phán họp lại làm một nước, đặt tên là Âu-Lạc – có ý là do Tây-Âu và Lạc-Việt họp thành – và đóng đô ở miền Cổ-loa ngày nay, tự xưng hiệu là An-dương-vương, có lẽ là muốn nhớ lại tên cố hương là Hoa-dương, tên miền đất nước Thục ở Tứ-xuyên.
Việc Thục-Phán vào đất Việt có lẽ xảy ra trước khi quân Tần đánh Tây-Âu (năm 245 tr.k.ng.)
Truyền thuyết cho chúng ta biết rằng An-dương-vương xây thành theo hình trôn ốc, và dùng nỏ thần của thần Kim-qui cho để giữ nước. Chúng ta có thể suy đoán rằng sau khi dựng nước, Thục-Phán tất đã đem văn hóa của quê hương mình là nước Thục mà du nhập cho người Việt, đã đem chế độ qui mô của nước Thục cũ mà đoàn kết các bộ-lạc người Việt thành một nước có tổ chức qui mô vững vàng. Phán đã dậy cho người Việt xây thành bằng đất và dùng cung nỏ bằng tre là hai kỹ thuật người Thục vốn sở trường. Có lẽ trong khi quân Tần tiến đánh Tây-Âu, Thục-Phán đã phấn khởi được lòng dõng cảm của người Việt, và, một mặt lợi dụng địa thế hiểm trở ở miền Nam Quảng-tây và miền thượng du Bắc-kỳ để làm thuật du kích một mặt thì dùng nỏ tên bịt đồng mà núp trong rừng bắn ra, cho nên cầm cự với quân Tần được trong 10 năm mà rốt cuộc quân Tần phải thua. Chúng ta có thể đoán rằng trong cuộc kháng chiến với quân Tần, An-dương-vương đã nhóm cho người Âu-Lạc cái mầm mống của tinh thần dân tộc.
Đối với quân Tần ở xa đến, An-dương-vương có thể thống suất người Việt mà kháng chiến thành công được. Nhưng cách ít lâu, khi Triệu-Đà đã lập nước Nam-Việt mà xưng đế, Đà sẽ lấy cả thế lực của một nước rộng hơn vạn dậm ở sát biên cảnh để uy hiếp, An-dương-vương không thể địch nổi mà phải nhường. Chúng ta không biết giữa Triệu-Đà với An-dương-vương có cuộc chiến tranh không ? Cố nhiên chúng ta không thể tin cuộc xung đột chép trong truyền thuyết, mà Tư-mã Thiên thì chỉ chép vắn tắt rằng Triệu-Đà đem binh uy hiếp biên thùy và dùng của cải mua chuộc khiến Âu-Lạc quy phục. Song có một điều chúng ta biết rõ là sau khi Âu-Lạc phục thuộc thì Triệu-Đà vẫn không đem chế độ phương Bắc mà dùng ở đó, ý giả Đà biết dân Âu-Lạc vốn khó cai trị sai khiến hơn dân Nam-Việt. Đà chỉ chia đất Âu-Lạc làm hai quận Giao-chỉ và Cửu-chân – có lẽ quận Giao-chỉ của Triệu-Đà gồm cả miền Bắc-kỳ và một phần đất phía Nam tỉnh Quảng-tây nữa ; còn quận Cửu-chân là đất Thanh-hóa và Nghệ-an – ở mỗi quận Đà đặt một quan Điển-sứ để coi việc dân và một quan Tả tướng để coi việc binh, còn các nhà quý tộc bản xứ thì vẫn được giữ thái ấp mà trị dân như cũ. Tại đất bản bộ của An-dương-vương là đất Tây-vu – trung tâm điểm là Loa-thành – có lẽ Triệu-Đà vẫn để con cháu Thục-Phán quản lãnh mà xưng vương – Tây-vu-vương – được biệt đãi hơn các nhà quý tộc khác. Sự nội thuộc nhà Triệu của nước Âu-Lạc bấy giờ kể ra cũng không chặt chịa lắm.
*
Sau khi Triệu-Đà chết hơn hai chục năm, tằng tôn của Đà là Triệu-Hưng nối ngôi thái-hậu là người Trung-quốc, tư thông với sứ giả nhà Hán, bèn mưu đem nước Nam-Việt nội thuộc Trung-quốc. Nhưng thừa-tướng nước Nam-Việt là Lữ-Gia âm kết với các đại thần để phản đối.
Nghe tin Lữ-Gia phản đối, vua Hán phát mười vạn binh, chia làm bốn đạo đi đánh Nam-Việt ; cuối năm thứ sáu hiệu Nguyên-đinh (III tr. K.ng), Phục Ba tướng quân là Lỗ-Bác-Đức và Lâu-thuyền tướng quân là Dương-Bộc chiếm được Phiên-ngung, Lữ-Gia và vua Nam-Việt là Triệu-Hưng (Kiến-Đức) đều bị bắt. Bấy giờ Thương-ngô-vương là phụ-dung của Nam-Việt cùng các huyện lệnh khác đều xin hàng.
Tây-vu-vương ở đất Âu-Lạc cũ, cũng là phụ dung của Nam-Việt, toan thừa cơ Nam-Việt suy vong mà quật khởi, nhưng bị ngay Hoàng-Đồng là Tả tướng của nhà Triệu đặt ở quận Giao-chỉ giết được. Các lạc tướng khác ở Âu-Lạc đều phải đầu hàng, tuy quân Hán chưa vào cõi. Hai quan Điển sứ Giao-chỉ và Cửu-chân thì nghe lời dụ của quan Giám quận Quế-lâm là Cư-Ông cũng đến dinh Lộ-Bác-Đức đầu hàng và nộp sổ đinh của hơn bốn mươi vạn dân Âu-Lạc. Thế là nước Nam-Việt cùng với nước phụ dung của Nam-Việt là Âu-Lạc cũ đều bị gồm vào bản đồ nhà Hán tự đó.
Nhà Hán chia đất Âu-Lạc cũ làm ba quận Giao-chỉ, Cửu-chân và Nhật-nam.
Giao-chỉ. – Theo sách Hàn thư địa lý chí thì quận Giao-chỉ gồm 92.440 nhà, 746.217 người, có 10 huyện là Liên-lâu, An-đinh, Câu-lậu, Mê-linh, Khú-lương, Bắc-đái, Kê-từ, Tây-vu, Long-biên và Châu-diên, mỗi huyện ấy là mỗi thái ấp của quý tộc cũ. Xét vị trí của mỗi huyện ấy, chúng ta thấy rằng đại khái địa bàn của quận Giao-chỉ bấy giờ là vùng các tỉnh hạ du và trung du Bắc-kỳ, ở lưu vực sông Nhị-hà và sông Thái-bình. Theo sự suy cứu của chúng tôi thì trị sở quận Giao-chỉ buổi đầu là thành Mê-linh – nay là làng Hạ-Lôi tỉnh Phúc-yên – tức là nơi mà sử cũ gọi là Phong-châu, trung tâm điểm của các Lạc-vương xưa. Quận Giao-chỉ của nhà Hán có lẽ chỉ ở trong vùng Lạc-Việt của nước Âu-Lạc, còn vùng Tây-Âu có lẽ nhà Hán tách ra mà tháp vào quận Uất-lâm ở miền Quảng-tây.
Cửu-chân. – Quận Cửu-chân, theo Hán-thư thì gồm 35.743 nhà, 166.013 người, có 7 huyện là Tư-phố, Cư-phong, Đố-lung, Dư-phát, Hàm hoan, Võ-thiết (sửa là Vô-công), đại khái tương đương với miền Thanh-hóa – lưu vực sông Mã và sông Chu – và miền Nghệ-tĩnh. Trị-sở Cửu-chân theo chúng tôi suy đoán là Tư-phố tức là nơi – làng Đông-sơn gần Hàm-rồng – mà cách đây hai mươi năm viện Viễn-Đông bác-cổ đã phát quật được di tích về thời đại đồ đồng. Quận này cũng thuộc về địa bàn của người Lạc-Việt.
Nhật-nam. – Nhà Hán lại đặt thêm một quận Nhật-nam ở phía nam Cửu-chân, đại khái tương đương với miền đất từ phía nam đèo Ngang đến miền nam đèo Hải-vân, là miền trung phần của xứ Trung-kỳ. Theo sách Hán-thư thì quận này gồm 15.460 nhà, 69.485 người, có 5 huyện là Chu-ngô, Tỳ-cảnh, Lô-dung, Tây-quyển và Tượng-lâm. Theo chúng tôi suy đoán thì buổi đầu nhà Hán đặt trị-sở Nhật-nam ở Tây-quyển, tại nơi mà người Chiêm-thành sau này sẽ đặt thành Khu-túc để giữ biên giới của họ ở phía Bắc, tức ở làng Cao-lao-hạ, huyện Bố-trạch, gần cửa sông Gianh tỉnh Quảng-bình 11. Cư dân ở quận ấy đại khái là các bộ-lạc về giống Anh-đô-nê, rải rác trong rừng rậm và trên bờ sông bờ biển – di duệ các bộ lạc ấy hiện nay là người Mọi. Nhưng trên bờ sông Gianh và sông Nhật-lệ đã có ít nhiều người Lạc Việt ở rồi, chứng cứ là những đồ đồng đào được ở đó giống hệt những đồ đồng đào được ở Đông-sơn.
Nhà Hán họp ba quận Giao-chỉ, Cửu-chân và Nhật-nam vào với sáu quận : Nam-hải, Thương-ngô, Uất-lâm, Hợp-phố, Đạm-nhĩ, Châu-nhai đặt ở địa bàn của nước Nam-Việt cũ làm Giao-chỉ-bộ, cũng gọi là Giao-châu. Có lẽ trị-sở của Giao-châu buổi đầu là Mê-linh cùng một nơi với quận-trị Giao-chỉ.
Trong hai quận Giao-chỉ và Cửu-chân, nhà Hán vẫn giữ hai quan Điển-sứ của nhà Triệu cho làm Thái-thú để trông nom các lạc-tướng mà việc trị dân thì vẫn để cho lạc-tướng như cũ ; ý nhà Hán cũng muốn bắt chước chính sách nhu viễn của nhà Triệu, chưa muốn đụng chạm gì đến nội bộ tổ chức của người Lạc-Việt, (ở quận Nhật-nam, có lẽ nhà Hán cũng đặt một quan Thái-thú để cầm chừng, chứ dân bản xứ vẫn được tự do như trước). Các lạc-tướng chỉ phải mỗi năm nộp thuế cống cho Thái-thú, còn lạc-dân thì cũng như xưa, vẫn làm ruộng (có lẽ như kiểu dân Mường làm ruộng cho Quan-lang ngày nay, theo một chế-độ tương tự với chế-độ nông nô ở Âu-châu) cho các lạc-tướng và đong lúa cho họ. Nhưng mỗi khi quan Thái thú cần dân phu để xây thành, đắp đường, dựng nhà cửa lâu đài, thì có lẽ các lạc-tướng phải đốc suất lạc-dân đi làm lực dịch. Nhưng đại khái buổi đầu thì chức vụ của quan Thái thú chỉ là thu thuế cống và kiểm sát qua loa những hành vi của các lạc tướng vẫn hoàn toàn tự chủ trong thái ấp của mình. Bên cạnh quan Thái thú thì nhà Hán đặt thêm quan Đô-úy cầm ít nhiều quân đồn trú để giữ gìn trật tự. Chúng ta có thể nói rằng trong suốt đời Tiền Hán, chính trị nhà Hán đối với dân Lạc-Việt trong các quận mới mở là Giao-chỉ và Cửu-chân, rất là thả lỏng.