Tổng hợp và chia sẻ: chuyện hay lạ hot trên đời, world of tanks, lịch sử Việt Nam...

Sự thật về ý nghĩa tên gọi Thủy Hử của Thi Nại Am

Nếu như các bạn là người từng đọc qua, tiểu thuyết Thủy Hử, thì có bao giờ bạn tự thắc mắc rằng, tại sao Thi Nại Am không lấy tên tác phẩm để đời của mình là, "Thủy Bạc Lương Sơn", hay, "Lương Sơn truyện", cho dễ hiểu? Tại sao Thi Nại Am lại lấy tên, Thủy Hử,và Hai chữ, "Thủy Hử", trong tên tác phẩm xuất phát từ đâu và có ý nghĩa gì?, trong video này hãy cùng, vn tổng hợp tìm hiểu.

Trước tiên chúng ta biết rằng, có một giai thoại về lần đổi tên duy nhất của "Thủy Hử truyện". Cụ thể là, Tương truyền rằng, năm xưa Thi Nại Am vốn định đặt tên tác phẩm của mình là "Khách truyện giang hồ". Nhưng chính bản thân ông cũng cảm thấy cái tên này không diễn tả đủ hàm ý mà ông mong muốn truyền tải. Đúng lúc đó, học trò của Thi Nại Am là La Quán Trung đã đề nghị với thầy mình rằng:
"Thưa thầy, con cho rằng nên đổi tên thành Thủy Hử truyện".
Thi Nại Am nghe xong liền cảm thấy thích thú với cái tên súc tích nhưng giàu ý nghĩa này, gật đầu và chắp bút viết ba chữ "Thủy Hử truyện" làm tiêu đề. Cho tới ngày nay, việc La Quán Trung có thực sự là học trò của Thi Nại Am hay không vẫn còn là vấn đề gây nhiều tranh cãi. Nhưng giai thoại về việc tác giả của "Tam Quốc diễn nghĩa" là người nghĩ ra cái tên "Thủy Hử truyện" vẫn được hậu thế kể cho nhau nghe trong những lúc trà dư tửu hậu.

"Thủy Hử" có đơn giản chỉ là bến nước.

Về ý nghĩa của tên gọi "Thủy Hử truyện", người đời sau chủ yếu lý giải theo hai lớp nghĩa sau. Thứ nhất, hai chữ "Thủy Hử" có nghĩa là "bến nước". Đặt tên là "Thủy Hử truyện" để khắc ghi về nơi các vị anh hùng đã có dịp tương ngộ với nhau rồi mới lên Lương Sơn tụ nghĩa. Cách lý giải đơn giản và sát nghĩa với tên truyện này nhận được sự tán thành của phần đông độc giả.

Ý nghĩa thật sự của tên gọi Thủy Hử.

Tuy nhiên, các chuyên gia về văn học, lịch sử lại cho rằng, cái tên "Thủy Hử truyện" là đại diện tiêu biểu cho thủ pháp văn học quen thuộc của người Trung Quốc tên là "dụng điển". Theo đó, "dụng điển" là một hình thức trích dùng các câu chuyện cổ hoặc một số câu chữ trong điển tích xưa, từ đó biểu đạt nội dung và tư tưởng có liên quan bằng những mỹ từ phong phú mà súc tích.
Cũng theo lý giải của giới chuyên gia, "Thủy Hử" là hai chữ bắt nguồn từ bài "Miên" (Đại Nhã) thuộc Kinh Thi, kể về cuộc thiên cư lần thứ hai của tộc Chu.  Trong đó có câu:
"Cổ Công Đản Phủ, lai hướng tẩu mã, suất tây thủy hử, chí vu kỳ hạ".
Những câu chữ này bắt nguồn từ câu chuyện kể về tổ phụ của dòng họ Chu – tức Cổ Công Đản Phụ hay còn gọi là Chu Thái vương. Tương truyền rằng, Cổ Công Đản Phụ sinh hạ vào lúc nhà Thương đang ở thời kỳ thịnh trị. Vào thời bấy giờ, bộ tộc Chu đang sống tại đất Mân – một mảnh đất nơi biên thùy cằn cỗi thường xuyên chịu sự quấy phá của các thế lực dũng mãnh phía bên ngoài. Suốt hàng chục năm trời, họ đã phải chịu cảnh thiếu cơm ăn áo mặc, ngày ngày sống trong nguy hiểm.
Chỉ đến khi bộ tộc một vị lãnh tụ kiệt xuất là Chu Thái Vương ra đời, bộ tộc ấy mới lập được kỳ tích. Chu Thái Vương Cổ Công Đản Phụ là cháu đời thứ 16 của Hiên Viên Hoàng đế và là hậu duệ đời thứ 12 của Chu Tổ Hậu Tắc, cũng là một lãnh đạo xuất sắc của bộ tộc Chu.
Dưới sự suất lĩnh của Đản Phụ, bộ tộc Chu đã trải qua nhiều nguy hiểm mới có thể ly khai đất Mân, vượt qua sông Tất, sông Thư, núi Lương để tới định cư tại Kỳ Sơn (nay thuộc thành phố Bảo Kê, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc).
Vùng đất mới này chẳng những có đất đai phì nhiêu mà lại tránh khỏi sự quấy phá của các thế lực ngoại tộc khác.
Bởi vậy, câu thơ có hai chữ "Thủy Hử" kia là thi ca để người thuộc bộ tộc họ Chu dùng để tưởng niệm và ca tụng công lao của Đản Phụ, mà hai chữ "Thủy Hử" trong đó dùng để chỉ nơi mà Đản Phụ đã dẫn dắt bộ tộc đến an cư, cũng chính là vùng đất mà họ Châu đã hưng thịnh sau này.
Vì vậy, ý hiểu đúng của hai chữ "Thủy Hử" là để chỉ "đường ra", là "nơi an thân", thường dùng để chỉ nơi ổn định cuộc sống trong hoàn cảnh túng quẫn.
Nếu hiểu theo ý nghĩa từ điển cố này, có thể thấy tên gọi "Thủy Hử truyện" không hề khó hiểu mà còn mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
Bởi dù là Tống Giang, Võ Tòng hay Lâm Xung… thì họ đều vì những nguyên nhân khác nhau mà trở nên "không có đất dung thân" trong xã hội bình thường.
"Đường ra" của những con người ấy đều đã bị chặt đứt, mà lên Lương Sơn tụ nghĩa chính là lối đi duy nhất để họ có thể sống sót, cũng là nơi duy nhất có "đất dung thân" cho những anh hùng, hảo hán sa cơ lỡ bước. Dù cho "Thủy Hử" mang ý nghĩa sâu xa là "đường ra", nhưng phải chăng cuộc đời của các anh hùng Lương Sơn Bạc vốn đã định sẵn là không có lối thoát nào khác chăng?.
Cảm ơn các bạn đã xem video, nhớ đăng ký kênh vn tổng hợp ủng hộ nhé. Tạm biệt, hẹn gặp lại.