“Hồi tỵ” có nghĩa là tránh đi hoặc né tránh. Luật “hồi tỵ” quy định, những người thân như anh em, cha con, thầy trò, bạn bè cùng học, những người cùng quê... thì không được làm quan cùng một chỗ. Nếu ai gặp những trường hợp nói trên thì phải tâu báo lên triều đình và các cơ quan chức năng để bố trí chuyển đi chỗ khác. Luật “hồi tỵ” cũng được áp dụng nghiêm ngặt trong các kỳ thi Hương, thi Hội, thi Đình. Đây là một biện pháp cần thiết và hữu hiệu để nâng cao hiệu quả quản lý của các cơ quan công quyền ở nước ta, nơi mà truyền thống văn hoá, tình cảm gia đình, dòng họ, địa phương, quan hệ thầy trò… khá sâu đậm và có những ảnh hưởng nhất định đến việc thực thi quyền lực.
Vua Lê Thánh Tông và vua Minh Mệnh ban hành và thực hiện luật "hồi tỵ" với mục đích đề phòng việc kéo bè, kéo cánh, đem tình cảm riêng chi phối các mối quan hệ làm việc trong các cơ quan nhà nước, giảm thiểu tác động tiêu cực của bệnh cục bộ địa phương, gia đình chủ nghĩa. Theo các ông, để bộ máy nhà nước hoạt động minh bạch, có hiệu lực, hiệu quả thì những người làm việc trong bộ máy ấy phải vô tư, khách quan, tận tuỵ vì công việc chung. Trong cùng một cơ quan, tổ chức nếu có những người có quan hệ họ hàng, thân thuộc thì khi giải quyết công việc, khi tiến hành hoạt động kiểm tra, giám sát, khen thưởng, kỷ luật sẽ dễ bị tình cảm cá nhân chi phối, không thể khách quan, công tâm.
Trong lịch sử hành chính nhà nước Việt Nam, vua Lê Thánh Tông là vị vua đầu tiên đã ban hành và thực hiện luật “hồi tỵ” rất cụ thể và nghiêm túc. Trong Bộ luật Hồng Đức, ông quy định những điều khoản phải “hồi tỵ”: “Cha con, thầy trò, anh em, vợ chồng, thông gia... không được làm, không được tổ chức thi cùng một nơi”.
Để ngăn ngừa việc kéo bè, kéo cánh liên quan đến quyền uy của dòng họ, vua Lê Thánh Tông thực hiện chế độ “hồi tỵ” ngay từ việc cắt đặt xã quan ở các làng xã. Năm 1488, nhà vua xuống dụ quy định: “Từ nay các quan phủ, huyện, châu xét đặt xã trưởng, hễ là anh em ruột, anh em con chú, con bác, bác cháu, cậu cháu với nhau thì chỉ cho một người làm xã trưởng, không được cho cả hai cùng làm để trừ mối tội bè phái hùa nhau”.
Năm 1497, ông xuống dụ quy định bổ sung: “Các viên quan quản quân, quản dân nếu người nào có quê quán ở ngay phủ, huyện mình cai trị, có nhà ở nha môn mình làm việc, thì Bộ lại điều động đi nơi khác, chọn người khác bổ thay”.
Đối tượng thực hiện luật “hồi tỵ” dưới triều vua Lê Thánh Tông là tất cả quan lại trong bộ máy ở triều đình trung ương và các cấp chính quyền địa phương. Đặc biệt, ông rất quan tâm đến việc áp dụng luật “hồi tỵ” ở các làng, xã, nơi mà các quan hệ xã hội bị ràng buộc bởi nhiều mối quan hệ gia đình, bà con, họ hàng.
Luật “hồi tỵ” dưới triều vua Minh Mệnh được mở rộng phạm vi, đối tượng áp dụng và bổ sung những quy định mới, bao gồm:
- Quan lại ở các bộ, trong Kinh và ở các tỉnh, huyện hễ có bố, con, anh em ruột, chú bác, cô dì cùng làm một chỗ đều phải đổi đi chỗ khác. Đối với Viện thái y là viện chuyên giữ việc thuốc men, chữa bệnh cần phải cha truyền con nối thì không phải áp dụng luật “hồi tỵ”.
- Những quan lại, ai quê ở phủ, huyện nào thì cũng không được làm việc tại nha môn của phủ, huyện ấy.
- Quan lại ở các nha thuộc phủ, huyện ai là người cùng làng thì phải chuyển đi nha môn khác làm việc.
- Quan lại không được làm quan ở chính quê hương mình, quê vợ mình, thậm chí cả nơi đi học lúc còn trẻ.
- Người có quan hệ thông gia với nhau, thầy trò cũng không được làm quan cùng một chỗ.
- Khi thanh tra, thụ lý án, nếu trong đó có tình tiết liên quan đến người thân thì phải bẩm báo để triều đình cử người khác thay thế.
- Quan lại không được coi thi, chấm thi ở nơi nào có những người ruột thịt, thân quen ứng thi. Nếu có thì phải tâu trình thay người khác.
- Nghiêm cấm các quan đầu tỉnh không được đặt quan hệ giao du, kết thân, kết hôn với đàn bà, con gái nơi mình trị nhậm, cấm tậu nhà, tậu ruộng... trong địa hạt cai quản của mình(3).
Ngoài những quy định về “hồi tỵ” như trên, vua Lê Thánh Tông và vua Minh Mệnh còn đề ra những quy định rất cụ thể về các hình thức xử phạt nếu quan lại nào vi phạm các quy định về luật “hồi tỵ”. Trong chỉ dụ năm 1448, vua Lê Thánh Tông nhấn mạnh: “Nếu ai man trá sẽ bị nghiêm trị”.
Những quy định trong luật “hồi tỵ” được áp dụng dưới triều vua Lê Thánh Tông và vua Minh Mệnh rất cụ thể, đối tượng và phạm vị áp dụng luật rất rộng, đã góp phần làm cho bộ máy nhà nước được củng cố, tránh được tình trạng cục bộ, bè phái, địa phương chủ nghĩa, các cơ quan nhà nước hoạt động có hiệu lực và hiệu quả hơn.
Năm 1886, vua Đồng Khánh (trị vì từ 1885-1888) định rằng “…trong cùng một bộ hay cùng một tỉnh, đều là người quê quán cùng một hạt, hoặc là nơi có bốn người cùng làm việc mà đến ba người là quên quán cùng một hạt, thì cũng cho hồi tỵ…” (Đại Nam điển lệ).
Thực tế ở nước ta cho thấy, khi luật “hồi tỵ” không được thực hiện nghiêm chỉnh, dùng quan hệ họ hàng, thân quen, “cánh hẩu” vào mục đích cá nhân, dẫn đến những hậu quả tai hại về nhiều mặt:
Một là, kéo bè, kéo cánh làm lũng đoạn, tha hóa bộ máy nhà nước. Bằng mọi cách những người cùng phe cánh tự ca ngợi nhau, thành lập các nhóm, ê kíp, vô hiệu hoá những người không cùng chính kiến với mình.
Hai là, tìm việc, thăng quan tiến chức nhờ vào mối quan hệ thân quen. Từ thời rất xa xưa trong xã hội đã tồn tại những quan niệm “một người làm quan cả họ được nhờ”, “một giọt máu đào hơn ao nước lã”... cứ mỗi lần về quê người ta lại kháo nhau ông nọ cậu kia làm quan ở Triều đình, ở Phủ, ở Huyện... Chẳng biết anh em họ hàng từ đời thủa nào nhưng vẫn khuyên nhau “sao không đến đó mà nhờ”!
Trên phương diện tình cảm thì “thân quen” là động lực thúc đẩy sự gắn kết, gần nhau, hiểu nhau hơn. Nhu cầu tất yếu đó có ích cho sự phát triển đa dạng các quan hệ xã hội. Nhưng một khi “thân quen” chỉ là công cụ để đạt được các mục đích tìm việc, tạo phe cánh, thăng quan tiến chức, trục lợi, tham nhũng... thì quả là nguy hiểm cho sự phát triển của xã hội. Một cơ quan, đơn vị nếu chỉ xét trên tiêu chí người thân, người quen hoặc anh em, họ hàng để tuyển dụng, đề bạt thì nhân tài sẽ bị lãng quên, đức hạnh, tài năng khi đó cũng không còn mấy ý nghĩa.
Ba là, sự liên minh của cơ sở kinh doanh “sân sau” với các quan chức để trục lợi, tham nhũng. Đây là biến tướng nguy hiển của mối quan hệ họ hàng, thân quen thời hiện đại. Sự liên kết này xuất phát từ các quan hệ gia đình, họ hàng, người làm chính trị, người làm kinh tế. Họ giàu có lên một cách nhanh chóng nhờ “tài kinh doanh” của những người thân. Đằng sau cái “tài kinh doanh” đó bao giờ cũng có hình bóng của những người trong bộ máy công quyền. Những phi vụ làm ăn béo bở, những mối quan hệ làm ăn thuận lợi được chuyển cho các cơ sở kinh doanh do con em người thân của họ thành lập.
Những hậu quả nêu trên, dù xét ở khía cạnh nào cũng ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của đất nước. Cho tới tận ngày nay, những chuyện tiêu cực này vẫn là mối lo lớn đối với nước nhà. Điều này đã từng được Chủ tịch Hồ Chí Minh cảnh báo: “Họ kéo bè, kéo cánh, bà con bạn hữu mình không tài năng gì cũng kéo vào chức này, chức nọ. Người có tài, có đức nhưng không vừa lòng mình thì đẩy ra ngoài. Họ quên rằng đây là việc công chứ không phải việc riêng gì dòng họ của ai”.
---
Tham khảo:
1. Tạp chí Cộng Sản - 29/01/2015
2. Báo Lao Động - 16/01/2018