Triệu Đà - Triệu vũ Đế (237 TCN -137 TCN) người miền bắc Trung Hoa, ông là một danh tướng được Tần Thủy Hoàng giao việc dẫn quân đánh chiếm các khu vục phía nam của Bách Việt, sau khi nhà Tần suy yếu, Triệu Dà quy rụ các bộ tộc Việt thành nước Nam Việt.
2.Còn xưng Đế? Lần này cả ĐVSKTT và SKTMT đều khá thống nhất (ĐVSKTT có lẽ đã dựa vào SKTMT) là sau khi Lã Hậu nắm quyền, cấm cản giao thương giữa 2 nước, thì Triệu Đà liền xưng đế đem quân đánh quận Trường Sa rồi rút lui(có lẽ khoảng năm 183 TCN -180TCN).
3.Vậy sau đó Triệu Đà vẫn xưng Đế hay xưng Vương? hay "cả hai"? Năm 179 TCN dưới thời Hán Văn Đế, nhà Hán cho sứ là Lục Giả sang Nam Việt chỉ dụ. Triệu Đà tiếp sứ, "tạ lỗi" nhận tước Vương và xin triều cống. Hai nước từ đó nối lại bang giao, đến thời Hán Cảnh Đế Lưu Khải(157 TCN - 141 TCN) Triệu Đà vẫn sai sứ vào chầu, nhận tước Vương xưng thần (ĐVSKTT và SKTT đều chung ý như vậy). Như vậy rõ ràng là Triệu Đà vẫn nhận tước Vương và xưng Thần với nhà Hán. Vậy đó là về mặt bang giao với nước lớn? còn trong nước thì sao? ĐVSKTT chép như sau: "Bấy giờ vua sai sứ sang nhà Hán thì xưng là Vương, giữ lễ triều yết cũng như các nước chư hầu, ở trong nước thì theo hiệu cũ" (hiệu cũ ở đây được hiểu là vẫn xưng đế) SKTMT cũng ghi tương tự: Đến thời Hiếu Cảnh, Đà vẫn xưng Thần, sai người vào chầu. Nhưng ở trong nước Nam Việt thì vẫn trộm dùng danh hiệu "đế" như cũ, còn khi sai sứ sang Thiên tử, thì xưng "Vương", triều kiến thỉnh mệnh như các chư hầu" Như vậy cả SKTMT và ĐVSKTT đều cho rằng: Triệu Đà xưng Vương nhận làm chư hầu với nhà Hán, nhưng đối với trong nước vẫn xưng Đế.
Thứ 2 nữa Thái Bình nằm sâu trong đất Giao Chỉ, mà quân Tần, đạo quân đi xa nhất cũng chỉ mới tiến đến vùng Lưỡng Quảng và vùng biên giới Trung Việt thì đụng trận với Thục Phán và sau đó bại trận, Đồ Thư chết thì lấy đâu ra chuyện lập huyện Chân Định ở tận Thái Bình nằm sâu trong nội địa Giao Chỉ, nếu mà Chân Định thuộc các tỉnh như Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang vvv thì còn có cơ may là nhà Tần lập ra huyện Chân Định ở đây. Chứ nếu Triệu Đà sinh ở Thái Bình vậy thời đó ông làm thế nào mà ông ấy vượt một quãng đường xa xôi như vậy tham gia vào quân Tần rồi còn leo đến chức huyện úy và còn được tướng Tần là Nhâm Ngao tin tưởng giao lại toàn quyền trước lúc chết?. Cái này quá vô lý!
-Triệu Đà còn có tượng, đền thờ ở Việt Nam và Lưỡng Quảng thì đâu có gì lạ, vì đó là lãnh thổ nước Nam Việt mà. Ông ấy là vua của Nam Việt cơ mà, với lại thời đó "Việt Nam" vấn đề về quốc gia, dân tộc nó chưa mạnh mẽ và phân biệt rạch ròi như về sau này. Nếu Triệu Đà là một vị vua cai trị tốt thì việc được dân Việt dựng đền thờ cũng là chuyện bình thường và chuyện ông lấy vợ Việt cũng là chuyện bình thường nữa! mà mọi người cũng nên biết thêm là ở Hà Bắc(TQ) cũng có tượng Triệu Đà và ở đó vẫn còn mộ tổ Triệu Đà do Hán Vũ Đế xây dựng với mục đích là vỗ về Nam Việt! -Ngay cả ĐVSKTT là bộ quốc sử thời Lê công nhận nhà Triệu là triều đại của nước Việt nhưng cũng cho rằng Triệu Đà là người phương bắc cơ mà!
Triệu Đà xưng Đế hay xưng Vương?
1. Như đã nói ở trên cả ĐVSKTT và SKTMT đều ghi rằng 'ban đầu" Triệu Đà xưng Vương( khoảng năm 207 TCN-206 TCN)2.Còn xưng Đế? Lần này cả ĐVSKTT và SKTMT đều khá thống nhất (ĐVSKTT có lẽ đã dựa vào SKTMT) là sau khi Lã Hậu nắm quyền, cấm cản giao thương giữa 2 nước, thì Triệu Đà liền xưng đế đem quân đánh quận Trường Sa rồi rút lui(có lẽ khoảng năm 183 TCN -180TCN).
3.Vậy sau đó Triệu Đà vẫn xưng Đế hay xưng Vương? hay "cả hai"? Năm 179 TCN dưới thời Hán Văn Đế, nhà Hán cho sứ là Lục Giả sang Nam Việt chỉ dụ. Triệu Đà tiếp sứ, "tạ lỗi" nhận tước Vương và xin triều cống. Hai nước từ đó nối lại bang giao, đến thời Hán Cảnh Đế Lưu Khải(157 TCN - 141 TCN) Triệu Đà vẫn sai sứ vào chầu, nhận tước Vương xưng thần (ĐVSKTT và SKTT đều chung ý như vậy). Như vậy rõ ràng là Triệu Đà vẫn nhận tước Vương và xưng Thần với nhà Hán. Vậy đó là về mặt bang giao với nước lớn? còn trong nước thì sao? ĐVSKTT chép như sau: "Bấy giờ vua sai sứ sang nhà Hán thì xưng là Vương, giữ lễ triều yết cũng như các nước chư hầu, ở trong nước thì theo hiệu cũ" (hiệu cũ ở đây được hiểu là vẫn xưng đế) SKTMT cũng ghi tương tự: Đến thời Hiếu Cảnh, Đà vẫn xưng Thần, sai người vào chầu. Nhưng ở trong nước Nam Việt thì vẫn trộm dùng danh hiệu "đế" như cũ, còn khi sai sứ sang Thiên tử, thì xưng "Vương", triều kiến thỉnh mệnh như các chư hầu" Như vậy cả SKTMT và ĐVSKTT đều cho rằng: Triệu Đà xưng Vương nhận làm chư hầu với nhà Hán, nhưng đối với trong nước vẫn xưng Đế.
Xem thêm: Tổng hợp bàn luận về sự chính danh của Triệu Đà - nhà Triệu và nước Nam Việt.
Nguồn gốc thật sự của Triệu Đà
Triệu Đà sinh ra ở đâu?
Nhiều người muốn nhìn nhận Nam Việt - Nhà Triệu là Triều Đại Việt Nam nên viện cớ nơi ông sinh là huyện Chân Định và cho đó là huyện Chân Định - Thái Bình(thay vì là huyện Chân Định - quận Hằng Sơn thời Tần nay thuộc tỉnh Hà Bắc ở Trung Quốc, mà các bộ sử sách của Việt Nam cũng như của Trung Quốc và các chứng tích còn lại đã khẳng định)??? đây là một sự ngộ nhận, vì đơn giản Chân Định - Thái Bình là tên gọi vào thời Lê Trung Hưng thế kỷ XVI, cách thời Triệu Đà tới gần 2000 năm. Có tài liệu nào cổ xưa hơn ĐVSKTT còn sót lại ghi cái tên Chân Định - Thái Bình có từ TK thứ II,III TCN không?.Thứ 2 nữa Thái Bình nằm sâu trong đất Giao Chỉ, mà quân Tần, đạo quân đi xa nhất cũng chỉ mới tiến đến vùng Lưỡng Quảng và vùng biên giới Trung Việt thì đụng trận với Thục Phán và sau đó bại trận, Đồ Thư chết thì lấy đâu ra chuyện lập huyện Chân Định ở tận Thái Bình nằm sâu trong nội địa Giao Chỉ, nếu mà Chân Định thuộc các tỉnh như Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang vvv thì còn có cơ may là nhà Tần lập ra huyện Chân Định ở đây. Chứ nếu Triệu Đà sinh ở Thái Bình vậy thời đó ông làm thế nào mà ông ấy vượt một quãng đường xa xôi như vậy tham gia vào quân Tần rồi còn leo đến chức huyện úy và còn được tướng Tần là Nhâm Ngao tin tưởng giao lại toàn quyền trước lúc chết?. Cái này quá vô lý!
Việc Triệu Đà có đền thờ ở Việt Nam?
Đền thờ Triệu Đà |