Nhận thấy cuộc chiến trên Thái Bình Dương bắt đầu chuyển sang thế bất lợi cho Nhật Bản: các hạm đội của Nhật ít có cửa thắng trước lực lượng hải quân hùng hậu của Hoa Kỳ ==> Tổng tư lệnh của hạm đội Liên Hợp Nhật Bản, đô đốc Yamamoto Isoroku, đã quyết định xây dựng một kế hoạch táo bạo là tấn công thành phố New York, Washington D.C và các thành phố khác của Hoa Kỳ cũng như phá hủy kênh đào Panama bằng cách sử dụng tàu ngầm...như một tàu sân bay.
Ngày 13/1/1942, Yamamoto đệ trình dự án của mình lên Tổng hành dinh hạm đội. Theo đó, ông muốn sản xuất 18 chiếc tàu ngầm khổng lồ với khả năng thực hiện 3 chuyến đi - về từ Nhật đến bờ Tây nước Mỹ mà không cần tiếp thêm nhiên liệu, hoặc thực hiện 1 chuyến đi - về tới bất kì nơi nào trên thế giới. Chúng tất nhiên cũng phải mang theo và có khả năng phóng ít nhất 2 chiếc máy bay với 1 quả thủy lôi hoặc bom 800 kg. Đến ngày 17/3 cùng năm, bản thiết kế tổng quan của tàu ngầm đã được hoàn tất. Ngày 18/1/1943, quá trình đóng con tàu mang số hiệu I-400 bắt đầu diễn ra tại Xưởng Kure thuộc thành phố Hiroshima. Sau đó, những chiếc khác trong dự án cũng bắt đầu được khởi công, bắt đầu với I-401 (tháng 4/1943), I-402 (tháng 10/1943), I-403 (tháng 9/1943) và I-404 (tháng 2/1944).
Mỗi chiếc tàu trong lớp I-400 có 4 động cơ 2250 mã lực. Chúng chứa đủ nhiên liệu để đi 1,5 vòng quanh Trái Đất, dư sức chạm đến cả bờ tây và đông nước Mỹ rồi quay trở về <== Ngay cả trong thời bây giờ cũng chưa có chiếc tàu ngầm động cơ diesel nào đủ sức làm được điều đó. Chiều dài của tàu là 120m với lượng giãn nước khi nổi là 3.530 tấn. Tuy chưa to bằng các lớp tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo này nay nhưng I-400 là lớp tàu ngầm lớn nhất thời đó (tàu ngầm Kilo ngày nay cũng chỉ dài 74m và dãn nước 3.100 tấn). Để tạo ra sự cân bằng khi chở máy bay bên trong, phần vỏ của tàu được thiết kế theo dạng thân đôi hình móc số 8 mà không tàu ngầm nào khác sở hữu. Tàu có khả năng chở khoảng 157 sĩ quan, kỹ sư, đội ngũ kĩ thuật và phi công lái máy bay.
Điểm đặc biệt thứ hai của tàu nằm ở khoang chứa máy bay hình trụ tròn dài 31m và có đường kính 3,5m với khả năng chống thấm nước (ảnh 2,3). Phần cửa ngoài của khoang có thể được mở bằng hệ thống thủy lực từ bên trong hoặc mở thủ công từ bên ngoài nhằm tăng tính linh hoạt khi tác chiến. Bản thân cái cửa này cũng chống nước với một dải cao su dày tới 51mm. Các tàu I-400 có thể mang 3 chiếc thủy phi cơ Aichi M6A Seiran, mỗi chiếc có thể mang 800 kg bom đạn và bay xa 650 km với tốc độ 475 km/giờ. Sự tồn tại của loại máy bay này hoàn toàn không được biết đến đối với tình báo của quân Đồng Minh. Cánh của Seiran có thể gấp lại, đuôi ngang và dọc của máy bay cũng có thể gập xuống để có thể thu nhỏ đường kính của máy bay cho vừa với khoang chứa. Khi chuẩn bị chiến đấu máy bay có sải cánh 12 m và chiều dài là 11,6 m. Chỉ trong vòng vài phút sau khi có lệnh cất cánh, những chiếc máy bay Seiran này sẽ được đẩy lên một máy phóng dài 37m sử dụng cơ chế nén khí để đưa chúng lên bầu trời, tương tự trên các tàu sân bay ngày nay (ảnh 4). Chỉ khác là sau khi đã xong nhiệm vụ, thủy phi cơ sẽ đáp lên xuống biển và được cần cẩu thủy lực đưa trở lại vào bên trong tàu ngầm.
Khi đã có trong tay những chiếc tàu I-400, Nhật đang sở hữu một siêu vũ khí mà quân Đồng Minh không thể ngờ tới. Theo kế hoạch ban đầu, 18 chiếc tàu sẽ được đóng để tiếp cận đất Mỹ một cách thầm lặng và tấn công bất ngờ. Nhưng mọi chuyện lại không được suông sẻ. Ngày 18/4/1943, Đô đốc Yamamoto đã chết khi máy bay của ông bị Mỹ tấn công và bắn hạ khi ông đang đi khảo sát Đảo Bắc Solomon, lý do là vì mật mã của Nhật đã bị Mỹ phá trong quá trình truyền tải giữa các trạm. Tới tháng 7 năm 1943, số lượng tàu bị giảm xuống còn 11, và đến tháng 12 cùng năm thì chỉ còn 5 chiếc. Trước khi chiến tranh kết thúc, Nhật chỉ đóng được có 3 chiếc mà thôi. Tsugio Yata, sĩ quan đại bác trên tàu I-401, cho biết: "Chúng tôi đã vượt qua những khó khăn để hoàn tất được chiếc chiến hạm ngay cả khi quá trình sản xuất không đi theo kế hoạch vì tàu quá lớn và bị thiếu hụt các nguyên vật liệu quan trọng do chiến sự đang không thuận lợi. Các nhà máy cũng bị hư hại nặng nên kế hoạch đóng tàu phải đổi nhiều lần".
Khi người Mỹ bắt đầu đánh sang Nhật, kế hoạch đánh vào đất Mỹ của Yamamoto đã bị hủy bỏ. Thay vào đó, 2 chiếc tàu I-400 và I-401 bắt đầu việc huấn luyện cho một nhiệm vụ đánh vào Kênh đào Panama trong nỗ lực ngăn chặn các tàu Mỹ đi từ biển Đại Tây Dương sang Thái Bình Dương. Nhật tin rằng động thái này sẽ làm chậm bước chân của Mỹ. Tuy nhiên trước khi cuộc tấn công có thể bắt đầu thì thông tin được phát ra tại căn cứ hải quân ở Maizuru đến được Nhật Bản là quân Đồng Minh đang chuẩn bị tấn công vào đảo. Kế hoạch đổi thành tấn công căn cứ hải quân của quân Đồng minh tại Ulithi nơi là bàn đạp cho các cuộc tấn công. Trước khi kế hoạch đó được thực hiện thì hoàng đế Nhật Bản đã phải ra tuyên bố đầu hàng. Kết quả là vào ngày 22 tháng 08 năm 1945, thủy thủ đoàn được lệnh phá hủy vũ khí trên tàu. Các ngư lôi được bắn đi mà không có đích đến, các máy bay được phóng lên nhưng không mở cánh và đuôi. Khi chiếc I-401 được lệnh đầu hàng cho khu trục hạm của Hoa Kỳ thuyền trường của nó đã tự sát, còn thủy thủ đoàn của Hoa Kỳ thì bị sốc trước kích thước của tàu ngầm.
Khi quá trình Mỹ chiếm đóng Nhật bắt đầu, 24 chiếc tàu ngầm còn hoạt động được của hải quân Nhật đã bị đánh đắm ở Đảo Goto gần thành phố Sasebo. Tuy nhiên, 5 chiếc tàu "bất bình thường" là I-400, I-401, một tàu I-14 siêu dài (115m) và 2 tàu tấn công nhanh I-201, I-203 thì được lai dắt về đảo Hawaii để Mỹ nghiên cứu thêm. Theo các tài liệu còn ghi lại thì tất cả những quan chức Mỹ đến xem tàu I-400 đều tỏ ra bất ngờ và họ đã dùng những từ như "tuyệt vời", "to lớn" để nói về những sản phẩm của người Nhật. Những tàn tích của bốn chiếc tàu ngầm (I-400, I-401, I-201 and I-203) được phân tích ngoài khơi đảo Hawaii bởi trung tâm kỹ thuật Hải quân Hoa Kỳ. Thông qua việc phân tích cho thấy những chiếc tàu ngầm trong vùng Kalaeloa gần Oahu của Hawaii đã bị đánh chìm bởi ngư lôi của tàu ngầm USS Trumpetfish (SS-425) vào ngày 04 tháng 06 năm 1946 vì các nhà khoa học của Liên Xô yêu cầu được tiếp cận với các tàu này. Xác chiếc tàu I-401 đã được xác định bởi các tàu ngầm nghiên cứu đáy biển Pisces của Phòng thí nghiệm nghiên cứu đáy biển Hawaii vào tháng 03 năm 2005 ở độ sâu 820 mét.
Người ta tin rằng I-400 đã tạo cảm hứng cho Mỹ chế tạo những chiếc tàu ngầm mang tên lửa hành trình sau này. Có nguồn tin tiết lộ rằng USS Grayback - tàu ngầm tác chiến tích cực đầu tiên của Mỹ mang theo tên lửa hạt nhận Regulus II - đã được xây dựng dựa trên I-400.
P/s: Tiếc quá, không được chiêm ngưỡng các em nó tác chiến
- Quân Lê -
Ngày 13/1/1942, Yamamoto đệ trình dự án của mình lên Tổng hành dinh hạm đội. Theo đó, ông muốn sản xuất 18 chiếc tàu ngầm khổng lồ với khả năng thực hiện 3 chuyến đi - về từ Nhật đến bờ Tây nước Mỹ mà không cần tiếp thêm nhiên liệu, hoặc thực hiện 1 chuyến đi - về tới bất kì nơi nào trên thế giới. Chúng tất nhiên cũng phải mang theo và có khả năng phóng ít nhất 2 chiếc máy bay với 1 quả thủy lôi hoặc bom 800 kg. Đến ngày 17/3 cùng năm, bản thiết kế tổng quan của tàu ngầm đã được hoàn tất. Ngày 18/1/1943, quá trình đóng con tàu mang số hiệu I-400 bắt đầu diễn ra tại Xưởng Kure thuộc thành phố Hiroshima. Sau đó, những chiếc khác trong dự án cũng bắt đầu được khởi công, bắt đầu với I-401 (tháng 4/1943), I-402 (tháng 10/1943), I-403 (tháng 9/1943) và I-404 (tháng 2/1944).
Mỗi chiếc tàu trong lớp I-400 có 4 động cơ 2250 mã lực. Chúng chứa đủ nhiên liệu để đi 1,5 vòng quanh Trái Đất, dư sức chạm đến cả bờ tây và đông nước Mỹ rồi quay trở về <== Ngay cả trong thời bây giờ cũng chưa có chiếc tàu ngầm động cơ diesel nào đủ sức làm được điều đó. Chiều dài của tàu là 120m với lượng giãn nước khi nổi là 3.530 tấn. Tuy chưa to bằng các lớp tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo này nay nhưng I-400 là lớp tàu ngầm lớn nhất thời đó (tàu ngầm Kilo ngày nay cũng chỉ dài 74m và dãn nước 3.100 tấn). Để tạo ra sự cân bằng khi chở máy bay bên trong, phần vỏ của tàu được thiết kế theo dạng thân đôi hình móc số 8 mà không tàu ngầm nào khác sở hữu. Tàu có khả năng chở khoảng 157 sĩ quan, kỹ sư, đội ngũ kĩ thuật và phi công lái máy bay.
Điểm đặc biệt thứ hai của tàu nằm ở khoang chứa máy bay hình trụ tròn dài 31m và có đường kính 3,5m với khả năng chống thấm nước (ảnh 2,3). Phần cửa ngoài của khoang có thể được mở bằng hệ thống thủy lực từ bên trong hoặc mở thủ công từ bên ngoài nhằm tăng tính linh hoạt khi tác chiến. Bản thân cái cửa này cũng chống nước với một dải cao su dày tới 51mm. Các tàu I-400 có thể mang 3 chiếc thủy phi cơ Aichi M6A Seiran, mỗi chiếc có thể mang 800 kg bom đạn và bay xa 650 km với tốc độ 475 km/giờ. Sự tồn tại của loại máy bay này hoàn toàn không được biết đến đối với tình báo của quân Đồng Minh. Cánh của Seiran có thể gấp lại, đuôi ngang và dọc của máy bay cũng có thể gập xuống để có thể thu nhỏ đường kính của máy bay cho vừa với khoang chứa. Khi chuẩn bị chiến đấu máy bay có sải cánh 12 m và chiều dài là 11,6 m. Chỉ trong vòng vài phút sau khi có lệnh cất cánh, những chiếc máy bay Seiran này sẽ được đẩy lên một máy phóng dài 37m sử dụng cơ chế nén khí để đưa chúng lên bầu trời, tương tự trên các tàu sân bay ngày nay (ảnh 4). Chỉ khác là sau khi đã xong nhiệm vụ, thủy phi cơ sẽ đáp lên xuống biển và được cần cẩu thủy lực đưa trở lại vào bên trong tàu ngầm.
Khi đã có trong tay những chiếc tàu I-400, Nhật đang sở hữu một siêu vũ khí mà quân Đồng Minh không thể ngờ tới. Theo kế hoạch ban đầu, 18 chiếc tàu sẽ được đóng để tiếp cận đất Mỹ một cách thầm lặng và tấn công bất ngờ. Nhưng mọi chuyện lại không được suông sẻ. Ngày 18/4/1943, Đô đốc Yamamoto đã chết khi máy bay của ông bị Mỹ tấn công và bắn hạ khi ông đang đi khảo sát Đảo Bắc Solomon, lý do là vì mật mã của Nhật đã bị Mỹ phá trong quá trình truyền tải giữa các trạm. Tới tháng 7 năm 1943, số lượng tàu bị giảm xuống còn 11, và đến tháng 12 cùng năm thì chỉ còn 5 chiếc. Trước khi chiến tranh kết thúc, Nhật chỉ đóng được có 3 chiếc mà thôi. Tsugio Yata, sĩ quan đại bác trên tàu I-401, cho biết: "Chúng tôi đã vượt qua những khó khăn để hoàn tất được chiếc chiến hạm ngay cả khi quá trình sản xuất không đi theo kế hoạch vì tàu quá lớn và bị thiếu hụt các nguyên vật liệu quan trọng do chiến sự đang không thuận lợi. Các nhà máy cũng bị hư hại nặng nên kế hoạch đóng tàu phải đổi nhiều lần".
Khi người Mỹ bắt đầu đánh sang Nhật, kế hoạch đánh vào đất Mỹ của Yamamoto đã bị hủy bỏ. Thay vào đó, 2 chiếc tàu I-400 và I-401 bắt đầu việc huấn luyện cho một nhiệm vụ đánh vào Kênh đào Panama trong nỗ lực ngăn chặn các tàu Mỹ đi từ biển Đại Tây Dương sang Thái Bình Dương. Nhật tin rằng động thái này sẽ làm chậm bước chân của Mỹ. Tuy nhiên trước khi cuộc tấn công có thể bắt đầu thì thông tin được phát ra tại căn cứ hải quân ở Maizuru đến được Nhật Bản là quân Đồng Minh đang chuẩn bị tấn công vào đảo. Kế hoạch đổi thành tấn công căn cứ hải quân của quân Đồng minh tại Ulithi nơi là bàn đạp cho các cuộc tấn công. Trước khi kế hoạch đó được thực hiện thì hoàng đế Nhật Bản đã phải ra tuyên bố đầu hàng. Kết quả là vào ngày 22 tháng 08 năm 1945, thủy thủ đoàn được lệnh phá hủy vũ khí trên tàu. Các ngư lôi được bắn đi mà không có đích đến, các máy bay được phóng lên nhưng không mở cánh và đuôi. Khi chiếc I-401 được lệnh đầu hàng cho khu trục hạm của Hoa Kỳ thuyền trường của nó đã tự sát, còn thủy thủ đoàn của Hoa Kỳ thì bị sốc trước kích thước của tàu ngầm.
Khi quá trình Mỹ chiếm đóng Nhật bắt đầu, 24 chiếc tàu ngầm còn hoạt động được của hải quân Nhật đã bị đánh đắm ở Đảo Goto gần thành phố Sasebo. Tuy nhiên, 5 chiếc tàu "bất bình thường" là I-400, I-401, một tàu I-14 siêu dài (115m) và 2 tàu tấn công nhanh I-201, I-203 thì được lai dắt về đảo Hawaii để Mỹ nghiên cứu thêm. Theo các tài liệu còn ghi lại thì tất cả những quan chức Mỹ đến xem tàu I-400 đều tỏ ra bất ngờ và họ đã dùng những từ như "tuyệt vời", "to lớn" để nói về những sản phẩm của người Nhật. Những tàn tích của bốn chiếc tàu ngầm (I-400, I-401, I-201 and I-203) được phân tích ngoài khơi đảo Hawaii bởi trung tâm kỹ thuật Hải quân Hoa Kỳ. Thông qua việc phân tích cho thấy những chiếc tàu ngầm trong vùng Kalaeloa gần Oahu của Hawaii đã bị đánh chìm bởi ngư lôi của tàu ngầm USS Trumpetfish (SS-425) vào ngày 04 tháng 06 năm 1946 vì các nhà khoa học của Liên Xô yêu cầu được tiếp cận với các tàu này. Xác chiếc tàu I-401 đã được xác định bởi các tàu ngầm nghiên cứu đáy biển Pisces của Phòng thí nghiệm nghiên cứu đáy biển Hawaii vào tháng 03 năm 2005 ở độ sâu 820 mét.
Người ta tin rằng I-400 đã tạo cảm hứng cho Mỹ chế tạo những chiếc tàu ngầm mang tên lửa hành trình sau này. Có nguồn tin tiết lộ rằng USS Grayback - tàu ngầm tác chiến tích cực đầu tiên của Mỹ mang theo tên lửa hạt nhận Regulus II - đã được xây dựng dựa trên I-400.
P/s: Tiếc quá, không được chiêm ngưỡng các em nó tác chiến
- Quân Lê -