Tet Mau Than, các cuộc tấn công do các lực lượng Bắc Việt bắt đầu vào những giờ đầu của ngày 31 tháng 1 năm 1968 trong Chiến tranh Việt Nam . Cuộc tấn công Tết Mậu Thân gồm các cuộc tấn công đồng thời bởi 85.000 quân dưới sự chỉ đạo của chính phủ Bắc Việt. Các cuộc tấn công đã được thực hiện chống lại năm thành phố lớn của miền Nam Việt Nam.
Vào tháng 7 năm 1967 , các nhà lãnh đạo Bắc Việt quyết định hành động để phá vỡ sự bế tắc giữa Bắc Việt Nam và Nam Việt Nam. Đối với chính phủ Bắc Việt, kết quả tốt nhất sẽ là sự phản đối bất mãn ở miền Nam, từ đó sẽ buộc chính phủ và quân đội Nam Việt Nam đứng đầu Nguyễn Văn Thiệu sụp đổ . Ngoài ra, cuộc tấn công có thể thuyết phục Hoa Kỳ rằng Mỹ không thể giành chiến thắng trong chiến tranh này; nhiều người Mỹ đã đạt được kết luận đó vào ngày thứ ba của cuộc tấn công.
Vào tháng 2 năm 1968, số binh lính Mỹ đã tăng lên hơn 500 người mỗi tuần, và khi số thương vong tăng, sự ủng hộ của công chúng Mỹ đã giảm. công chúng Mỹ ngày càng trở nên mãnh liệt trong việc chống lại sự hiện diện của binh lính Mỹ tại Việt Nam. sự can thiệp của Hoa Kỳ là gia tăng với chi phí cuộc sống của người Mỹ khi đối mặt với một kẻ thù không mệt mỏi và dường như bất khả xâm phạm.
Quân đội Hoa Kỳ, tất nhiên, đã trở nên lạc quan hơn sau Tết Mậu Thân. Họ đã nhìn thấy trong sự thất bại thành công của cuộc tấn công kẻ thù của họ một sự suy yếu không thể chối cãi của lực lượng Bắc Việt. Bằng cách tách rời các chiến thuật du kích cổ điển và tấn công các thành phố phía Nam, Bắc Việt đã sẵn sàng chống lại thế mạnh lớn nhất của đối phương. Sự vượt trội về tổ chức, vật chất và hậu cần của Mỹ đã nhanh chóng chứng minh trong những giờ đầu của cuộc tấn công. Kết quả là, lực lượng Bắc Việt đã phải chịu tổn thất nặng nề: khoảng 50.000 quân đội miền Bắc Việt Nam bị giết, mất tích, hoặc bị bắt. Tư lệnh Mỹ Gen.William C. Westmoreland đã xem tình hình hậu Tết như một cơ hội cho một cuộc tấn công của Mỹ nhằm làm suy yếu thêm kẻ thù và phủ nhận bất kỳ sự hồi sinh nào trong tương lai. Với sự khích lệ củaChủ tịch Liên đoàn Chief Staff, Earle Wheeler, Westmoreland đã yêu cầu nhiều lực lượng quân đội hơn nữa. Yêu cầu của ông ban đầu bị từ chối, tuy nhiên, như Pres. Lyndon B. Johnson không mong muốn mở rộng cuộc chiến tranh trên mặt đất.
Sự phản đối ngày càng tăng đối với bất kỳ sự leo thang nào cho sự can thiệp của Hoa Kỳ vào Việt Nam, gây áp lực lớn hơn lên chính quyền Johnson và Quốc hội Hoa Kỳ. Vào giữa tháng 3 năm 1968, 139 thành viên của Hạ viện đã đồng thuận nghị quyết yêu cầu xem xét lại chính sách của Hoa Kỳ tại Việt Nam. Ngoại trưởng Dean Rusk đã bị điề trần trước Uỷ ban Đối ngoại của Thượng viện. Vào ngày 22 tháng 3, Johnson chỉ chấp nhận một khoản tăng quân nhỏ. Đồng thời, ông tuyên bố rằng Westmoreland sẽ được triệu hồi trở lại Hoa Kỳ. Westmoreland được thay thế bởi Gen.Creighton Abrams , người đã tích cực theo đuổi chương trình Vietnamization và giám sát việc giảm sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam dưới 30.000 quân.
Vào tháng 7 năm 1967 , các nhà lãnh đạo Bắc Việt quyết định hành động để phá vỡ sự bế tắc giữa Bắc Việt Nam và Nam Việt Nam. Đối với chính phủ Bắc Việt, kết quả tốt nhất sẽ là sự phản đối bất mãn ở miền Nam, từ đó sẽ buộc chính phủ và quân đội Nam Việt Nam đứng đầu Nguyễn Văn Thiệu sụp đổ . Ngoài ra, cuộc tấn công có thể thuyết phục Hoa Kỳ rằng Mỹ không thể giành chiến thắng trong chiến tranh này; nhiều người Mỹ đã đạt được kết luận đó vào ngày thứ ba của cuộc tấn công.
Vào tháng 2 năm 1968, số binh lính Mỹ đã tăng lên hơn 500 người mỗi tuần, và khi số thương vong tăng, sự ủng hộ của công chúng Mỹ đã giảm. công chúng Mỹ ngày càng trở nên mãnh liệt trong việc chống lại sự hiện diện của binh lính Mỹ tại Việt Nam. sự can thiệp của Hoa Kỳ là gia tăng với chi phí cuộc sống của người Mỹ khi đối mặt với một kẻ thù không mệt mỏi và dường như bất khả xâm phạm.
Quân đội Hoa Kỳ, tất nhiên, đã trở nên lạc quan hơn sau Tết Mậu Thân. Họ đã nhìn thấy trong sự thất bại thành công của cuộc tấn công kẻ thù của họ một sự suy yếu không thể chối cãi của lực lượng Bắc Việt. Bằng cách tách rời các chiến thuật du kích cổ điển và tấn công các thành phố phía Nam, Bắc Việt đã sẵn sàng chống lại thế mạnh lớn nhất của đối phương. Sự vượt trội về tổ chức, vật chất và hậu cần của Mỹ đã nhanh chóng chứng minh trong những giờ đầu của cuộc tấn công. Kết quả là, lực lượng Bắc Việt đã phải chịu tổn thất nặng nề: khoảng 50.000 quân đội miền Bắc Việt Nam bị giết, mất tích, hoặc bị bắt. Tư lệnh Mỹ Gen.William C. Westmoreland đã xem tình hình hậu Tết như một cơ hội cho một cuộc tấn công của Mỹ nhằm làm suy yếu thêm kẻ thù và phủ nhận bất kỳ sự hồi sinh nào trong tương lai. Với sự khích lệ củaChủ tịch Liên đoàn Chief Staff, Earle Wheeler, Westmoreland đã yêu cầu nhiều lực lượng quân đội hơn nữa. Yêu cầu của ông ban đầu bị từ chối, tuy nhiên, như Pres. Lyndon B. Johnson không mong muốn mở rộng cuộc chiến tranh trên mặt đất.
Sự phản đối ngày càng tăng đối với bất kỳ sự leo thang nào cho sự can thiệp của Hoa Kỳ vào Việt Nam, gây áp lực lớn hơn lên chính quyền Johnson và Quốc hội Hoa Kỳ. Vào giữa tháng 3 năm 1968, 139 thành viên của Hạ viện đã đồng thuận nghị quyết yêu cầu xem xét lại chính sách của Hoa Kỳ tại Việt Nam. Ngoại trưởng Dean Rusk đã bị điề trần trước Uỷ ban Đối ngoại của Thượng viện. Vào ngày 22 tháng 3, Johnson chỉ chấp nhận một khoản tăng quân nhỏ. Đồng thời, ông tuyên bố rằng Westmoreland sẽ được triệu hồi trở lại Hoa Kỳ. Westmoreland được thay thế bởi Gen.Creighton Abrams , người đã tích cực theo đuổi chương trình Vietnamization và giám sát việc giảm sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam dưới 30.000 quân.