Tổng hợp và chia sẻ: chuyện hay lạ hot trên đời, world of tanks, lịch sử Việt Nam...

Tháng 2-1979 Liên Xô cảnh cáo Không được đụng đến Việt Nam

Tháng 2/1979: Liên Xô cảnh cáo "Không được đụng đến Việt Nam!" 35 năm trước, khi chiến tranh biên giới Việt - Trung nổ ra, Liên Xô đã tỏ rõ là sẽ không ngần ngại áp dụng những biện pháp cao nhất để “khôi phục hòa bình và công lý”.



LTS: Ngày 17/2/1979, Trung Quốc bất ngờ đưa quân ồ ạt tấn công các tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam. Quân và dân Việt Nam một lần nữa phải bước vào cuộc chiến bảo vệ chủ quyền. Trong những tháng ngày hào hùng và bi tráng ấy, sự giúp đỡ của nhân dân tiến bộ thế giới, đặc biệt là Liên Xô đã góp phần vào thắng lợi của Việt Nam.

Hôm nay, kỷ niệm 35 năm ngày nổ ra cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc, xin trân trọng giới thiệu tới quý độc giả một tài liệu lược thuật từ báo Phòng thủ Đường không và Vũ trụ Nga (VKO), điểm lại những sự giúp đỡ quý báu ấy.

Đầu năm 1979, tại biên giới với Việt Nam, phía Trung Quốc hình thành mặt trận gồm 15 sư đoàn thê đội 1 (*) , 6 sư đoàn dã chiến quân thê đội 2, và 3 sư đoàn dự bị. Tổng quân số cụm quân được động viên để tham chiến chống Việt Nam lên tới 29 sư đoàn…

3h30 ngày 17/2/1979, trên một số hướng, sau 30 -35 phút pháo hỏa chuẩn bị, quân Trung Quốc đã xâm nhập nhập qua 20 đoạn biên giới Trung - Việt vào lãnh thổ Việt Nam.

… Nhưng trước tinh thần chiến đấu anh dũng của quân và dân Việt Nam, kế hoạch của ban lãnh đạo Bắc Kinh, dùng xung đột quân sự để nhanh chóng đập tan sự kháng cự của quân đội Việt Nam, buộc Việt Nam phải từ bỏ đường lối đối ngoại không lệ thuộc vào Trung Quốc, trước khi Liên Xô kịp can thiệp đã bất thành. Ý đồ của Bắc Kinh đảo ngược tình hình ở Campuchia cũng không đạt được.

Cuộc biểu dương lực lượng hùng hậu của Liên Xô
Tháng 2-1979 Liên Xô cảnh cáo Không được đụng đến Việt Nam

Trong thời gian từ 12 đến 26/3/1979, nhằm kiên quyết tạo áp lực quân sự lên Trung Quốc, theo chỉ thị của BCH TW Đảng Cộng sản Liên Xô, các Quân khu biên giới phía Đông (các vùng đất tiếp giáp với Trung Quốc của Liên Bang Xô Viết), tại lãnh thổ Mông Cổ và Hạm đội Thái Bình Dương đã tiến hành tập trận.

Tổng cộng đã có 20 sư đoàn binh chủng hợp thành và không quân tham gia, với tổng quân số lên tới hơn 200.000 sĩ quan, chiến sĩ, hơn 2.600 xe tăng, gần 900 máy bay, 80 tàu chiến các loại.

Diễn tập bắt đầu bằng lệnh động viên, và chuyển các đơn vị vào tình trạng sẵn sàng chiến đấu cao nhất. Đã động viên 52.000 quân nhân dự bị, huy động hơn 5.000 xe máy của nông nghiệp sang phục vụ yêu cầu sẵn sàng chiến đấu.

Các cuộc diễn tập quy mô lớn nhất diễn ra trên lãnh thổ Mông Cổ, huy động tới 6 sư đoàn bộ binh cơ giới và sư đoàn tăng, trong đó có 3 sư đoàn được điều động tới Mông Cổ từ Sibir và Zabaikal. Trong khuôn khổ cuộc diễn tập này còn có sự góp mặt gần 3 sư đoàn không quân, 2 lữ đoàn độc lập và một số liên binh đoàn và đơn vị tăng cường.

Cùng lúc, trong các cuộc diễn tập ở Viễn Đông và Đông Kazakhstan (có đường biên giới với Trung Quốc), ngoài các đơn vị cấp sư đoàn trở lên bộ đội hiệp đồng binh chủng, còn có các đơn vị bộ đội biên phòng Liên Xô tham gia.

Tại các vùng có đường biên giới với Trung Quốc, lực lượng Xô Viêt đã diễn tập các phương án tổ chức phòng ngự, đánh trả đội hình tiến công của đối phương, phản kích, và chuyển sang phản công.

Từ lãnh thổ Ukraina và Belorussia, các trung đoàn không quân chiến đấu đã sang triển khai lực lượng tại các sân bay của Mông Cổ.

Đồng thời với các cuộc diễn tập, chỉ trong 2 đêm, các trung đoàn không quân không chỉ từ các quân khu lân cận, mà cả từ vùng Prikarpatia, cũng đã điều động ra phía đông (phía khu vực tiếp giáp hai lục địa Á - Âu).

Các cuộc chuyển quân trên của Không quân Xô Viết không chỉ liên quan đến đội hình chiến đấu cấp trung đoàn, với các phi công được huấn luyện tốt nhất, mà là cuộc di chuyển của toàn trung đoàn, kể cả các đơn vị và phân đội bảo dưỡng kỹ thuật trên không và mặt đất. 5 quân khu đã tham gia tiếp dầu cho cuộc diễn tập này.

Trong tiến trình diễn tập, có những khoảng thời gian trong không trung có tới 10 trung đoàn không quân tuyến 1 (đội hình chiến đấu) hoạt động. Các kíp bay đã bay tổng cộng 5.000 giờ, đã sử dụng tới 1.000 trái bom và tên lửa trong diễn tập bắn đạn thật.

Tại biển Đông, và biển Hoa Đông, gần 50 chiến hạm của Hạm đội Thái Bình Dương, trong số đó có 6 tàu ngầm đã trực chiến sẵn sàng chiến đấu và tiến hành tập trận đánh tiêu diệt hải quân đối phương. Tại vùng Primorie (ven biển Viễn Đông) đã diễn ra các cuộc đổ bộ của Thủy quân lục chiến Liên Xô.

Trợ chiến

Không quân Xô Viết còn cử các đơn vị của mình sang công tác tại Việt Nam để giải quyết vấn đề trinh sát đường không chống quân xâm lược trên lãnh thổ Việt Nam. Các đơn vị thuộc không quân vận tải Liên Xô (các phi đội AN-12, AN-26, MI-8…) làm nhiệm vụ vận chuyển đường không trong lãnh thổ Việt Nam.

Với thực lực trang bị còn tương đối hạn chế, nhưng Không quân chiến thuật Liên Xô đã vận hành rất hiệu quả cầu hàng không giữa Liên Xô và Việt Nam. Trong khuôn khổ diễn tập tại Liên Xô và trong lúc thực hiện nhiệm vụ chuyên chở vũ khí, trang thiết bị cho Việt Nam, lực lượng này đã vận chuyển tổng cộng 20 ngàn quân, hơn 1.000 đơn vị trang bị xe máy, 20 máy bay và trực thăng, 3 ngàn tấn quân dụng, đạn dược.

Viện trợ quân sự

Riêng về mặt quân sự, viện trợ cho Việt Nam là một nhiệm vụ trọng đại, nhằm mục tiêu gia tăng nhanh chóng tiềm lực quân sự cho Việt Nam.

Chỉ trong giai đoạn từ khi cuộc xung đột bắt đầu (giữa tháng 2) đến cuối tháng 3/1979, bằng đường thủy, Liên Xô đã đưa sang Việt Nam hơn 400 xe tăng và xe bọc thép, xe chở quân, 400 cỗ pháo và súng phóng lựu, 50 dàn phóng đạn phản lực 40 nòng, cỡ 122 mm “Grad”, hơn 100 cỗ pháo cao xạ, 400 đồng bộ cao xạ di động cùng hàng ngàn tên lửa đi theo, 800 súng chống tăng của bộ binh, 20 máy bay tiêm kích.

Dù việc chuyển giao gấp rút, nhưng các vũ khí và trang bị này đều đã được thẩm định về chất lượng sẵn sàng chiến đấu bởi một ủy ban gồm các chuyên gia có kiến thức và kinh nghiệm của quân đội Xô Viết.

Đòn cân não

Sự kháng cự kiên cường của quân đội Việt Nam cùng thái độ kiên quyết ủng hộ Việt Nam của Liên Xô và phản ứng của dư luận thế giới đã khiến Trung Quốc phải chịu tổn thất to lớn.

Một loạt các hành động quân sự - chính trị của Liên Xô dưới dạng các bước chuẩn bị cho việc tiến quân vào lãnh thổ Trung Quốc, cùng với mâu thuẫn trong giới cầm quyền Trung Quốc, cũng như các sai lầm nghiêm trọng trong chỉ đạo và tác chiến của quân đội nước này… đã dẫn đến việc ngày 5/3/1979, Bắc Kinh phải ra quyết định rút quân, và 20/3/1979 phải thực hiện rút quân ra khỏi lãnh thổ Việt Nam.

Nhưng quân Trung Quốc sau đó vẫn ngoan cố đóng lại ở một số phần đất (sâu 1km vào lãnh thổ Việt Nam và rộng 2 km), mà trước đó Trung Quốc cố tình gọi là “đất tranh chấp” ở vùng biên giới hai nước.

Bài báo của VKO cho rằng sở dĩ Liên Xô đã chơi rắn đến cùng như vậy, vì việc Trung Quốc xâm lược vùng biên giới phía Bắc của Việt Nam khơi dậy nguy cơ chiến tranh lớn trên “hai mặt trận”, do vừa ký kết Hiệp định hợp tác toàn diện Việt - Xô).

Nhìn lại thời kỳ này, năm 2009, tướng Vũ Xuân Vinh, nguyên thủ trưởng kỳ cựu của ngành đối ngoại quân sự Việt Nam chia sẻ, ông vẫn vô cùng ấn tượng về cách Liên Xô đã chọn hồi đầu năm 1979, bằng ý chí và hành động, cảnh cáo “không được đụng đến Việt Nam”.

(*) Thê đội là bộ phận của đội hình được sắp xếp theo bậc thang để hành động theo thứ tự kế tiếp nhau vì mục đích đã định trong kế hoạch. Thê đội được gọi theo thứ tự hành động trước sau: Thê đội 1, Thê đội 2... Một đội hình chiến đấu (chiến dịch, chiến lược) có thể có 1 đến 3 thê đội.

Lê Đỗ Huy 
Nguồn tin: Tri Thức Trẻ