Napoléon III lên nắm quyền trong một cuộc đảo chính với sự hỗ trợ của nhà thờ Công giáo vào năm 1852. Do đó, ông ta không thể thoát khỏi một cam kết đối với nhà thờ về các mục tiêu truyền giáo ở châu Á. Bên cạnh đó, ông ta cũng có nhiều tham vọng của riêng mình để đạt được vinh quang khi đạt được mục tiêu bành trướng như người chú lừng lẫy của mình. Napoleon III ban đầu miễn cưỡng hành động vì còn e dè với việc các nhà truyền giáo ở Đông Dương bị trả thù như cách mà nhà Nguyễn của Đại Nam đã làm thế nhưng cuối cùng vào năm 1856, ông ta cũng đã thông qua kế hoạch đánh chiếm thành phố Tourane (cách mà phương Tây gọi Đà nẵng). Napoleon III đã lầm tưởng rằng người Pháp sẽ được chào đón như những người giải phóng khỏi một hoàng đế áp bức tuy nhiên có lẽ ông ta đã lầm.
Năm 1858, một lực lượng gồm 2.500 binh đoàn ngoại binh Pháp và 500 lính Tây Ban Nha bắt đầu cuộc chinh phạt Đông Dương bằng cách chiếm Tourane và sử dụng nó làm căn cứ cho các hoạt động trong tương lai trên toàn mặt trận Đông Dương.
Quân đoàn Pháp và quân đội Tây Ban Nha đã quá bất ngờ khi quân đội Đại Nam không chiến đấu với họ trong các trận chiến đấu mà rút vào rừng rậm và phục kích các nhóm nhỏ quân đội Pháp rời Tourane để do thám hoặc tuần tra quanh thành phố. Nhiều sĩ quan và binh sĩ của quân đội Pháp đã phải chịu những vết thương khủng khiếp do hầm chương của người An Nam và nhiễm trùng cho đến chết.
Những chiến thuật du kích này sẽ ám ảnh người Pháp và sau đó là người Mỹ trong hơn 100 năm và tỏ ra khó đối phó. Những người lính Pháp trong bộ quân phục nặng nề của họ phải vật lộn trong ánh mặt trời gay gắt của Đông Dương và những cơn mưa nhiệt đới xối xả. Sau sáu tháng chiếm đóng, quân đội Pháp đã mất hàng trăm binh sĩ vì bị phục kích và các bệnh như dịch tả, sốt rét, kiết lỵ và hoại thư. Cuộc thám hiểm vinh quang Napoleon III đã biến thành một thảm họa.
Không thể đạt được bất kỳ tiến bộ nào ở Tourane, người Pháp đã tìm đến Sài Gòn ở Nam Kỳ. Sài Gòn, một thị trấn có hơn 2.000 cư dân, là một trung tâm thương mại quan trọng được bảo vệ bởi một tòa thành mạnh mẽ. Vào ngày 16 tháng 2 năm 1859, một đội tàu chiến Pháp đã bắt đầu nã súng thần công vào các thành lũy của Đại Nam và cuối cùng đã phá vỡ một vi phạm nhỏ ở bức tường phía đông bắc. Hai đại đội thủy quân lục chiến và thủy thủ Pháp đã đổ bộ, phá tung lớp tường thành bằng chất nổ và sau đó là tiến công bằng súng với lưỡi lê. Người An Nam chiến đấu nhưng rồi nhanh chóng vào Sài Gòn và rừng rậm xung quanh.
Vào ngày 8 tháng 3 năm 1859, tướng De Genouilly cho đặt mấy chục ổ thuốc nổ phá tung nhiều đoạn trường thành, đốt dinh thự kho tàng bên trong, đốt cả thóc lúa. Kể lại vụ việc này, sách Địa chí TP. Hồ Chí Minh, tập I, có đoạn:
“Kho thóc thành Gia Định cháy mãi hai năm mà khói còn nghi ngút. Hai mươi bốn tháng nắng mưa không làm tắt được đám cháy nào. Quân Pháp cũng cướp giật, đốt luôn nhiều phố xá thương mãi và thôn xóm dân cư…”
Mặc dù quân đội Pháp và Tây Ban Nha kiểm soát Sài Gòn nhưng họ không thể mạo hiểm ra ngoài thành vì sợ bị phục kích hoặc dính bẫy. Chỉ huy người Pháp, Đô đốc de Genouilly, đã để lại 1.000 lính Pháp đồn trú ở Sài Gòn và trở về Tourane và nhận thêm một tin xấu là quân đồn trú ở đây cũng đã mất thêm hàng trăm người vì các bệnh nhiệt đới. De Genouilly quyết định từ bỏ Tourane, trao lại quyền chỉ huy cho Đại tá hải quân Jauréguibery chiếm giữ Gia Định, và đưa phần còn lại đội quân của mình tham gia một cuộc xâm lược của Anh ở miền bắc Trung Quốc trong Chiến tranh thuốc phiện lần thứ hai.
Vào năm 1859, Nghe tin Gia Định thất thủ, triều đình Huế vẫn chủ trương để đại quân phòng ngự Đà Nẵng, chỉ phái thượng thư bộ Hộ Tôn Thất Hiệp mang 12.000 quân (có tài liệu ghi là 15.000) vào đóng ở Biên Hòa. Tuy nhiên, mặc dù có binh lực tới hơn 12.000 nhưng đã không cho tiến công quân Pháp mà ngược lại ông ta lại cho dừng lại ở làng Kỳ hòa cách Sài Gòn 5km để xây đắp tiền đồn trong thời gian tới hơn 2 tháng.
Cuộc đụng độ đầu tiên xảy ra vào ngày 10 tháng 4 năm 1859 lúc 6 giờ sáng tại Phú Thọ. Quân Việt xuất phát từ sáng sớm ở Đồn Tiền đi đến Chợ Lớn. Họ nghe tiếng quân kỵ mã nhưng không nhìn thấy được, vì sương mai và vì các bụi cỏ cao. Đến khi thấy khoảng 10 lính Pháp hiện ra, quân Việt liền nổ súng. Một lính kỵ mã bị trúng đạn, số lính còn lại bắn trả. Quân Việt ngay lập túc rút chạy về Phú Thọ, sau khi chết hết 10 người, trong đó có trưởng toán tuần tiễu tên Thoại và một người làm chức cai tên Cốc. Cuộc giao chiến này kéo dài chưa được 30 phút...
Sau trận đó đến hết năm, không có cuộc giao tranh nào khác. Tướng Tôn Thất Hiệp nhận thêm quân tiếp viện, nhưng cũng chỉ “án binh bất động”, củng cố đồn lũy, đề phòng các cuộc tấn công sắp tới mặc dù quân Pháp trong thời gian này không có khả năng tấn công.
--- Lời bình ---
Số quân Pháp ở Sài Gòn không quá 300 tên, trong lúc số quân mà Tôn Thất Hiệp cầm trong tay nhiều hơn gấp hai chục lần, chưa kể dân dũng trong tỉnh Gia Định và các tỉnh khác kéo đến tiếp ứng. Vậy mà Tôn Thất Hiệp chỉ lo bao vây không chịu quyết liệt tấn công... Theo như nhận định của các nhà nghiên cứu, "một cuộc giải phóng đất nước đã mở ra". Nhưng tướng nhà Nguyễn chỉ huy mặt trận Gia Định là Tôn Thất Hiệp lại chủ trương " án binh bất động" để "làm nản lòng địch". Do vậy, thời cơ đánh bật quân xâm lược ra khỏi bờ cõi bị bỏ qua.
Năm 1858, một lực lượng gồm 2.500 binh đoàn ngoại binh Pháp và 500 lính Tây Ban Nha bắt đầu cuộc chinh phạt Đông Dương bằng cách chiếm Tourane và sử dụng nó làm căn cứ cho các hoạt động trong tương lai trên toàn mặt trận Đông Dương.
Quân đoàn Pháp và quân đội Tây Ban Nha đã quá bất ngờ khi quân đội Đại Nam không chiến đấu với họ trong các trận chiến đấu mà rút vào rừng rậm và phục kích các nhóm nhỏ quân đội Pháp rời Tourane để do thám hoặc tuần tra quanh thành phố. Nhiều sĩ quan và binh sĩ của quân đội Pháp đã phải chịu những vết thương khủng khiếp do hầm chương của người An Nam và nhiễm trùng cho đến chết.
Những chiến thuật du kích này sẽ ám ảnh người Pháp và sau đó là người Mỹ trong hơn 100 năm và tỏ ra khó đối phó. Những người lính Pháp trong bộ quân phục nặng nề của họ phải vật lộn trong ánh mặt trời gay gắt của Đông Dương và những cơn mưa nhiệt đới xối xả. Sau sáu tháng chiếm đóng, quân đội Pháp đã mất hàng trăm binh sĩ vì bị phục kích và các bệnh như dịch tả, sốt rét, kiết lỵ và hoại thư. Cuộc thám hiểm vinh quang Napoleon III đã biến thành một thảm họa.
Không thể đạt được bất kỳ tiến bộ nào ở Tourane, người Pháp đã tìm đến Sài Gòn ở Nam Kỳ. Sài Gòn, một thị trấn có hơn 2.000 cư dân, là một trung tâm thương mại quan trọng được bảo vệ bởi một tòa thành mạnh mẽ. Vào ngày 16 tháng 2 năm 1859, một đội tàu chiến Pháp đã bắt đầu nã súng thần công vào các thành lũy của Đại Nam và cuối cùng đã phá vỡ một vi phạm nhỏ ở bức tường phía đông bắc. Hai đại đội thủy quân lục chiến và thủy thủ Pháp đã đổ bộ, phá tung lớp tường thành bằng chất nổ và sau đó là tiến công bằng súng với lưỡi lê. Người An Nam chiến đấu nhưng rồi nhanh chóng vào Sài Gòn và rừng rậm xung quanh.
Vào ngày 8 tháng 3 năm 1859, tướng De Genouilly cho đặt mấy chục ổ thuốc nổ phá tung nhiều đoạn trường thành, đốt dinh thự kho tàng bên trong, đốt cả thóc lúa. Kể lại vụ việc này, sách Địa chí TP. Hồ Chí Minh, tập I, có đoạn:
“Kho thóc thành Gia Định cháy mãi hai năm mà khói còn nghi ngút. Hai mươi bốn tháng nắng mưa không làm tắt được đám cháy nào. Quân Pháp cũng cướp giật, đốt luôn nhiều phố xá thương mãi và thôn xóm dân cư…”
Mặc dù quân đội Pháp và Tây Ban Nha kiểm soát Sài Gòn nhưng họ không thể mạo hiểm ra ngoài thành vì sợ bị phục kích hoặc dính bẫy. Chỉ huy người Pháp, Đô đốc de Genouilly, đã để lại 1.000 lính Pháp đồn trú ở Sài Gòn và trở về Tourane và nhận thêm một tin xấu là quân đồn trú ở đây cũng đã mất thêm hàng trăm người vì các bệnh nhiệt đới. De Genouilly quyết định từ bỏ Tourane, trao lại quyền chỉ huy cho Đại tá hải quân Jauréguibery chiếm giữ Gia Định, và đưa phần còn lại đội quân của mình tham gia một cuộc xâm lược của Anh ở miền bắc Trung Quốc trong Chiến tranh thuốc phiện lần thứ hai.
Vào năm 1859, Nghe tin Gia Định thất thủ, triều đình Huế vẫn chủ trương để đại quân phòng ngự Đà Nẵng, chỉ phái thượng thư bộ Hộ Tôn Thất Hiệp mang 12.000 quân (có tài liệu ghi là 15.000) vào đóng ở Biên Hòa. Tuy nhiên, mặc dù có binh lực tới hơn 12.000 nhưng đã không cho tiến công quân Pháp mà ngược lại ông ta lại cho dừng lại ở làng Kỳ hòa cách Sài Gòn 5km để xây đắp tiền đồn trong thời gian tới hơn 2 tháng.
Cuộc đụng độ đầu tiên xảy ra vào ngày 10 tháng 4 năm 1859 lúc 6 giờ sáng tại Phú Thọ. Quân Việt xuất phát từ sáng sớm ở Đồn Tiền đi đến Chợ Lớn. Họ nghe tiếng quân kỵ mã nhưng không nhìn thấy được, vì sương mai và vì các bụi cỏ cao. Đến khi thấy khoảng 10 lính Pháp hiện ra, quân Việt liền nổ súng. Một lính kỵ mã bị trúng đạn, số lính còn lại bắn trả. Quân Việt ngay lập túc rút chạy về Phú Thọ, sau khi chết hết 10 người, trong đó có trưởng toán tuần tiễu tên Thoại và một người làm chức cai tên Cốc. Cuộc giao chiến này kéo dài chưa được 30 phút...
Sau trận đó đến hết năm, không có cuộc giao tranh nào khác. Tướng Tôn Thất Hiệp nhận thêm quân tiếp viện, nhưng cũng chỉ “án binh bất động”, củng cố đồn lũy, đề phòng các cuộc tấn công sắp tới mặc dù quân Pháp trong thời gian này không có khả năng tấn công.
--- Lời bình ---
Số quân Pháp ở Sài Gòn không quá 300 tên, trong lúc số quân mà Tôn Thất Hiệp cầm trong tay nhiều hơn gấp hai chục lần, chưa kể dân dũng trong tỉnh Gia Định và các tỉnh khác kéo đến tiếp ứng. Vậy mà Tôn Thất Hiệp chỉ lo bao vây không chịu quyết liệt tấn công... Theo như nhận định của các nhà nghiên cứu, "một cuộc giải phóng đất nước đã mở ra". Nhưng tướng nhà Nguyễn chỉ huy mặt trận Gia Định là Tôn Thất Hiệp lại chủ trương " án binh bất động" để "làm nản lòng địch". Do vậy, thời cơ đánh bật quân xâm lược ra khỏi bờ cõi bị bỏ qua.