Tháng 12/1986, đại diện giới tư bản tài chính Pháp là Paul Doumer đã sang Đông Dương làm quan toàn quyền xứ này. Ngày 22/3/1897, một dự án “Chương trình hành động” đã được Pháp khởi động. có thể nói Pháp đã bắt đầu hành động cho công cuộc khai thác thuộc địa tại Đông Dương.
Với sự thất bại của những cuộc vũ trang của nhân dân ta cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp đã có thời kỳ tạm thời hòa bình sau hàng chục năm chiến tranh hao binh tổn tướng, tiêu tốn nhiều tiền bạc cho chiến tranh, cùng với đó, Pháp đã kí với triều đình Nguyễn hàng loạt những hiệp ước có lợi cho chúng từ đó chúng yên tâm bước vào khai thác thuộc địa Đông Dương.
Thực chất, từ khi kí hiệp ước Versailles (1787), sau đó 70 năm đến khi thành lập đến năm lập Hội đồng Nam kỳ (1857), tư bản Pháp đã tìm đủ mọi cách để mở cửa Việt Nam. Chúng đã từng bước can thiệp vào nội tình đất nước, khiêu khích bằng quân sự, đưa ra yêu sách tự do truyền đạo, tự do buôn bán, đưa ra chiêu bài ngoại giao hữu hảo, tìm nguyên cớ cho cuộc chiến tranh. Đó thực chất chỉ là quá trình chuẩn bị của tư bản Pháp trong việc thực hiện âm mưu chiến lược: muốn thôn tính Việt Nam, biến Việt Nam thành thuộc địa và căn cứ ở Viễn Đông, nhất là ở miền Nam Trung Quốc, nhằm giành giật thị trường với tư bản Anh và các tư bản khác ở khu vực béo bở này.
Và khi đã tìm được nguyên cớ cho cuộc chiến tranh của mình (lấy cớ triều đình Huế không nhận quốc thư, làm nhục quốc thể nước Pháp và bênh vực đạo Thiên Chúa đang bị khủng bố ở Việt Nam) Pháp thực hiện công cuộc chiến tranh xâm lược hòng biến Việt Nam là thuộc địa. Có thể nói, triều đình nhà Nguyễn đã tạo thời cơ cho chúng chuẩn bị từng bước để thực hiện công cuộc khai thác thuộc địa của mình. Vì sau những hiệp ước giữa triều đình nhà Nguyễn với thực dân Pháp, chúng ta thấy rõ việc triều đình nhà Nguyễn từ bỏ những lợi ích dân tộc, lợi ích của nhân dân, nhún nhường trước quân Pháp, đặc biệt là sau hiệp ước Hac-mang (1883) triều đình phong kiến nhà Nguyễn không những tự mình làm mất đi sự độc lập của một chính quyền nhà nước phong kiến mà qua đó còn thể hiện sự phản bội trắng trợn của triều đình phong kiến và bè lũ vua tôi nhà Nguyễn với lợi ích của dân tộc.
Công cuộc khai thác thuộc địa của Pháp được thực hiện sau khi đã tạm thời bình định được những cuộc khởi nghĩa vũ trang tức là đầu thế kỉ XX nhưng thực chất, quá trình chuẩn bị cho công cuộc đó phải tính từ khi Pháp nổ phát súng đầu tiên vào Đà Nẵng để xâm lược Việt Nam.
Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa khiến cho nhu cầu về thị trường ngày càng lớn, các nước tư bản ráo riết thâu tóm càng nhiều thuộc địa càng tốt, những công cuộc khai thác thuộc địa liên tục được tiến hành, có quy mô và kế hoạch rõ ràng, chi tiết, nhằm vắt kiệt tài nguyên của các nước thuộc địa đem về cho chính quốc, làm giàu cho chính quốc. Chính vì thế, đến đầu thế kỉ XX, thực dân pháp đã tiến hành công cuộc khai thác thuộc địa có quy mô hơn tại Việt Nam. Rõ ràng, công cuộc chuẩn bị cho việc biến Việt Nam thành thuộc địa để khai thác đã được chuẩn bị từ rất lâu, chuẩn bị từng bước rất cẩn thận và hết sức chu toàn nhưng tại sao mãi đến đầu thế kỉ XX mới được thực hiện?
+ Khi thực dân Pháp nổ phát súng đầu tiên xâm lược Việt Nam, nhìn thấy những âm mưu đen tối của bọn chúng, nhân dân trong cả nước đã nổi dậy đấu tranh. Hàng loạt các cuộc khởi nghĩa liên tục được nổ ra, những tổn thất nặng nề khiến Pháp phải vài phần e dè. Ngoài ra tư bản Pháp vừa thất bại trong chính cuộc chiến tranh Pháp – Phổ, một phần lãnh thổ đã mất đi, khiến cho tình hình trong nước cũng không khả quan. Chính điều này buộc giới chính trị của Pháp phải đề phòng, không dám đánh chiếm những thuộc địa ở xa vừa tốn kém vừa nguy hiểm. Những nhà cầm quyền của Pháp cũng phải dè dặt khi đối mặt với những đề nghị của Đuypuy. Tuy nhiên, chính sự thờ ơ của triều đình cùng những sai lầm trong hàng loạt cuộc khởi nghĩa đã tạo ra những cơ hội để thực dân Pháp liên tục đàn áp những cuộc khởi nghĩa vũ trang. Mãi đến tận cuối thế kỉ thứ XIX, khi đã tạm thời đàn áp được những cuộc khởi nghĩa vũ trang, Pháp mới dần dành thời gian cho công cuộc khai thác.
+ Có thể nói, sau khi tạm thời bình định được những cuộc khởi nghĩa vũ trang, Pháp cũng không khá hơn Việt Nam là bao nhiêu, khi mang những tổn thất nặng nề về lực lượng, tiền của đầu tư cho cuộc chiến tranh. Chính vì thế, Pháp cũng phải dành thời gian cho việc phục hồi sau chiến tranh.
+ Mặt khác, sau những hiệp ước được kí giữa Pháp và triều đình nhà Nguyễn, Pháp đã dần tiến dần vào bộ máy chính trị của nhà Nguyễn. Nhất là sau khi hiệp ước Hac-mang đươc kí kết. Những hiệp ước trước đó về cơ bản chỉ là cho quân Pháp một phần quyền lực cai quản trong đất nước, tuy nhiên, sau hiệp ước Hac-mang, thì thực chất quyền đối nội, đối ngoại của triều đình đã phụ thuộc vào Pháp và do Pháp quyết định (ví như: “tại Huế sẽ đặt chức Khâm sứ để thay mặt Chính phủ Pháp, viên này có quyền gặp nhà vua bất kì lúc nào nếu xét ra cần thiết (khoản II), phụ trách việc thuế quan (các khoản 12, 13, 17, 18, 19), mọi việc giao thiệp của Việt Nam với nước ngoài – kể cả Trung Quốc – cũng do Pháp nắm (khoản 1)….”- trích Đại cương Lịch sử Việt Nam, tập II , Đinh Xuân Lâm, NXB Giáo Dục). Vì vậy, thực chất hiệp ước 1883 đã chính thức chấm dứt sự tồn tại của triều đình phong kiến nhà Nguyễn với tư cách là một quốc gia độc lập. Tuy vẫn còn tồn tại trên hình thức nhưng triều đình phong kiến chỉ còn là tay sai cho Pháp. Pháp từng bước thiết lập bộ máy cai trị chặt chẽ trên đất Việt Nam. Sau khi chiếm được Nam Kỳ, thực dân Pháp ráo riết chuẩn bị tấn công toàn lãnh thổ. Chúng gấp rút củng cố bộ máy cai trị đàn áp từ trên xuống dưới – một bộ máy cai trị mang tính độc tài quân sự của bọn sĩ quan hiếu chiến và tham bạo. Và khi Le Myre de Vilers sang làm thống đốc Nam Kì năm 1879 chấm dứt thời kì độc tài quân sự kéo dài suốt 20 năm (1859-1879) của bọn đô đốc, đã chú ý củng cố Nam Kì về mọi mặt để biến Nam Kì thành bàn đạp cho Pháp tiến ra Bắc. Bằng một số thủ đoạn cải cách bịp bợm về chính trị và tư pháp, như thành lập Hội đồng Quản Hạt Nam kì, đặt bộ máy tư pháp riêng ở các tỉnh và Sài Gòn. Trên cơ sở liên kết chặt chẽ các tầng lớp trên trong xã hội, thực dân Pháp đã củng cố thêm một bước quyền thống trị thực dân để dễ trấn áp quần chúng hơn. Thực dân Pháp nuôi tham vọng biến triều đình từng bước trở thành bộ máy cai trị để bọn chúng sai khiến. Tham vọng đó không ngừng được thực hiện, cho đến khi chúng thành công trong việc đàn áp những cuộc khởi nghĩa vũ trang (về mặt quân sự) thì việc xây dựng bộ máy cai trị của chúng trên đất Việt Nam cũng đã dần được hoàn thiện. Ngày 22/3/1897, Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer đã gửi cho Bộ trưởng Bộ thuộc địa Pháp dự án “chương trình hoạt động” trong đó gồm 7 điều khoản để thực hiện công cuộc khai thác thuộc địa một cách toàn vẹn nhất của Pháp tại Việt Nam:
“1. Tổ chức một chính phủ chung cho toàn Đông Dương và tổ chức bộ máy cai trị hành chính riêng cho từng xứ thuộc liên bang.
2. Sửa đổi lại chế độ tài chính, thiết lập một hệ thống thuế khóa mới sao cho phù hợp với yêu cầu của ngân sách, nhưng phải dựa trên cơ sở xã hội cụ thể, và phải chú ý khai thác những phong tục tập quán của dân Đông Dương
3. Chú ý xây dựng thiết bị to lớn cho Đông Dương, như xây dựng hệ thống đường sắt, đường bộ, sông đào, bến cảng… những thứ cần thiết cho việc khai thác.
4. Đẩy mạnh nền sản xuất và thương mại bằng việc phát triển công cuộc thực dân của người Pháp và lao động của người bản xứ.
5. Bảo đảm phòng thủ Đông Dương bằng việc thiết lập những căn cứ của hải quân và phải tổ chức quân đội và hạm đội cho thật vững mạnh.
6. Hoàn thành công cuộc bình định xứ Bắc kỳ, bảo đảm an ninh vùng biên giới Bắc kỳ.
7. Khuếch trương ảnh hưởng của nước Pháp, mở rộng quyền lợi của nước pháp ở vùng Viễn Đông, nhất là ở các nước lân cận.” (trích Đại Cương Lịch sử Việt Nam, tập II, Đinh Xuân Lâm, NXB Giáo Dục).
Có thể nói, chương trình khai thác của Paul Doumer để thi hành ở Đông Dương, chủ yếu là Việt Nam, có mục đích tối thương là biến gấp Đông Dương thành thuộc địa khai khẩn bậc nhất, bảo đảm siêu lợi nhuận cao nhất cho đế quốc Pháp. Sênô (Jean Chesneaux) trong cuốn Đóng góp vào lịch sử dân tộc Việt Nam đã đánh giá cao Paul Doumer: “Chính ông đã đưa chế độ thuộc địa từ giai đoạn kinh nghiệm chủ nghĩa hầu như “thủ công" sang giai đoạn tồ chức hệ thống. Chính ông đã tạo dựng bộ máy thống nhất về bóc lột tài chính và đàn áp chính trị trong thực tế sẽ được duy trì nguyên vẹn đến tận 1945”.
Như vậy, Pháp cần phải đàn áp được những phong trào đấu tranh vũ trang của ta vào cuối thế kỉ thứ XIX đầu thế kỉ XX, hoàn thành công cuộc bình định Việt Nam bằng quân sự và đặt xong bộ máy cai trị tại Việt Nam thì thực dân Pháp mới bắt đầu tiến hành công cuộc khai thác thuộc địa của mình. Nếu như Pháp thực hiện luôn công cuộc khai thác thuộc địa sau khi đánh chiếm thành công nước ta thì có thể công cuộc khai thác sẽ không đạt được mục đích. Không có một bộ máy cai trị với những chính sách bịp bợm, liệu Pháp có thể dễ dàng trấn áp quần chúng? Không thể bình định được những cuộc khởi nghĩa, thì liệu Pháp có đủ lực lượng và của cải để có thể tiến hành công cuộc khai thác của mình? Tất nhiên là không. Một nước tư bản thực dân như Pháp sẽ nhìn rõ những điểm mình cần làm trước khi thực hiện công cuộc khai thác của mình. Mặc dù mang lại những cải cách to lớn về nhiều mặt, song vẫn có những tồn tại mặt hại song song mặt lợi trong thời kì Pháp thuộc. Mặc dù vậy, công cuộc khai thác này chỉ tiến hành được 7 năm thì phải dừng lại vì chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ ở Châu Âu.
Tài liệu tham khảo:
ü Lịch sử việt nam cận hiện đại (1858 – 1975), Hà Minh Hồng, ĐHQGTPHCM, 2005.
ü Việt - Nam thời Pháp đô - hộ, Nguyễn Thế Anh, Thạc sĩ sử học, trưởng ban sử học đại học Văn khoa Saigon, tủ sách sử địa học, Lửa Thiêng xuất bản, 1970.
ü Đại cương Lịch sử Việt Nam, tập II , Đinh Xuân Lâm, NXB Giáo Dục.
ü Internet.
Với sự thất bại của những cuộc vũ trang của nhân dân ta cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp đã có thời kỳ tạm thời hòa bình sau hàng chục năm chiến tranh hao binh tổn tướng, tiêu tốn nhiều tiền bạc cho chiến tranh, cùng với đó, Pháp đã kí với triều đình Nguyễn hàng loạt những hiệp ước có lợi cho chúng từ đó chúng yên tâm bước vào khai thác thuộc địa Đông Dương.
Thực chất, từ khi kí hiệp ước Versailles (1787), sau đó 70 năm đến khi thành lập đến năm lập Hội đồng Nam kỳ (1857), tư bản Pháp đã tìm đủ mọi cách để mở cửa Việt Nam. Chúng đã từng bước can thiệp vào nội tình đất nước, khiêu khích bằng quân sự, đưa ra yêu sách tự do truyền đạo, tự do buôn bán, đưa ra chiêu bài ngoại giao hữu hảo, tìm nguyên cớ cho cuộc chiến tranh. Đó thực chất chỉ là quá trình chuẩn bị của tư bản Pháp trong việc thực hiện âm mưu chiến lược: muốn thôn tính Việt Nam, biến Việt Nam thành thuộc địa và căn cứ ở Viễn Đông, nhất là ở miền Nam Trung Quốc, nhằm giành giật thị trường với tư bản Anh và các tư bản khác ở khu vực béo bở này.
Cuộc khai thác thuộc địa thứ nhất |
Công cuộc khai thác thuộc địa của Pháp được thực hiện sau khi đã tạm thời bình định được những cuộc khởi nghĩa vũ trang tức là đầu thế kỉ XX nhưng thực chất, quá trình chuẩn bị cho công cuộc đó phải tính từ khi Pháp nổ phát súng đầu tiên vào Đà Nẵng để xâm lược Việt Nam.
Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa khiến cho nhu cầu về thị trường ngày càng lớn, các nước tư bản ráo riết thâu tóm càng nhiều thuộc địa càng tốt, những công cuộc khai thác thuộc địa liên tục được tiến hành, có quy mô và kế hoạch rõ ràng, chi tiết, nhằm vắt kiệt tài nguyên của các nước thuộc địa đem về cho chính quốc, làm giàu cho chính quốc. Chính vì thế, đến đầu thế kỉ XX, thực dân pháp đã tiến hành công cuộc khai thác thuộc địa có quy mô hơn tại Việt Nam. Rõ ràng, công cuộc chuẩn bị cho việc biến Việt Nam thành thuộc địa để khai thác đã được chuẩn bị từ rất lâu, chuẩn bị từng bước rất cẩn thận và hết sức chu toàn nhưng tại sao mãi đến đầu thế kỉ XX mới được thực hiện?
+ Khi thực dân Pháp nổ phát súng đầu tiên xâm lược Việt Nam, nhìn thấy những âm mưu đen tối của bọn chúng, nhân dân trong cả nước đã nổi dậy đấu tranh. Hàng loạt các cuộc khởi nghĩa liên tục được nổ ra, những tổn thất nặng nề khiến Pháp phải vài phần e dè. Ngoài ra tư bản Pháp vừa thất bại trong chính cuộc chiến tranh Pháp – Phổ, một phần lãnh thổ đã mất đi, khiến cho tình hình trong nước cũng không khả quan. Chính điều này buộc giới chính trị của Pháp phải đề phòng, không dám đánh chiếm những thuộc địa ở xa vừa tốn kém vừa nguy hiểm. Những nhà cầm quyền của Pháp cũng phải dè dặt khi đối mặt với những đề nghị của Đuypuy. Tuy nhiên, chính sự thờ ơ của triều đình cùng những sai lầm trong hàng loạt cuộc khởi nghĩa đã tạo ra những cơ hội để thực dân Pháp liên tục đàn áp những cuộc khởi nghĩa vũ trang. Mãi đến tận cuối thế kỉ thứ XIX, khi đã tạm thời đàn áp được những cuộc khởi nghĩa vũ trang, Pháp mới dần dành thời gian cho công cuộc khai thác.
+ Có thể nói, sau khi tạm thời bình định được những cuộc khởi nghĩa vũ trang, Pháp cũng không khá hơn Việt Nam là bao nhiêu, khi mang những tổn thất nặng nề về lực lượng, tiền của đầu tư cho cuộc chiến tranh. Chính vì thế, Pháp cũng phải dành thời gian cho việc phục hồi sau chiến tranh.
+ Mặt khác, sau những hiệp ước được kí giữa Pháp và triều đình nhà Nguyễn, Pháp đã dần tiến dần vào bộ máy chính trị của nhà Nguyễn. Nhất là sau khi hiệp ước Hac-mang đươc kí kết. Những hiệp ước trước đó về cơ bản chỉ là cho quân Pháp một phần quyền lực cai quản trong đất nước, tuy nhiên, sau hiệp ước Hac-mang, thì thực chất quyền đối nội, đối ngoại của triều đình đã phụ thuộc vào Pháp và do Pháp quyết định (ví như: “tại Huế sẽ đặt chức Khâm sứ để thay mặt Chính phủ Pháp, viên này có quyền gặp nhà vua bất kì lúc nào nếu xét ra cần thiết (khoản II), phụ trách việc thuế quan (các khoản 12, 13, 17, 18, 19), mọi việc giao thiệp của Việt Nam với nước ngoài – kể cả Trung Quốc – cũng do Pháp nắm (khoản 1)….”- trích Đại cương Lịch sử Việt Nam, tập II , Đinh Xuân Lâm, NXB Giáo Dục). Vì vậy, thực chất hiệp ước 1883 đã chính thức chấm dứt sự tồn tại của triều đình phong kiến nhà Nguyễn với tư cách là một quốc gia độc lập. Tuy vẫn còn tồn tại trên hình thức nhưng triều đình phong kiến chỉ còn là tay sai cho Pháp. Pháp từng bước thiết lập bộ máy cai trị chặt chẽ trên đất Việt Nam. Sau khi chiếm được Nam Kỳ, thực dân Pháp ráo riết chuẩn bị tấn công toàn lãnh thổ. Chúng gấp rút củng cố bộ máy cai trị đàn áp từ trên xuống dưới – một bộ máy cai trị mang tính độc tài quân sự của bọn sĩ quan hiếu chiến và tham bạo. Và khi Le Myre de Vilers sang làm thống đốc Nam Kì năm 1879 chấm dứt thời kì độc tài quân sự kéo dài suốt 20 năm (1859-1879) của bọn đô đốc, đã chú ý củng cố Nam Kì về mọi mặt để biến Nam Kì thành bàn đạp cho Pháp tiến ra Bắc. Bằng một số thủ đoạn cải cách bịp bợm về chính trị và tư pháp, như thành lập Hội đồng Quản Hạt Nam kì, đặt bộ máy tư pháp riêng ở các tỉnh và Sài Gòn. Trên cơ sở liên kết chặt chẽ các tầng lớp trên trong xã hội, thực dân Pháp đã củng cố thêm một bước quyền thống trị thực dân để dễ trấn áp quần chúng hơn. Thực dân Pháp nuôi tham vọng biến triều đình từng bước trở thành bộ máy cai trị để bọn chúng sai khiến. Tham vọng đó không ngừng được thực hiện, cho đến khi chúng thành công trong việc đàn áp những cuộc khởi nghĩa vũ trang (về mặt quân sự) thì việc xây dựng bộ máy cai trị của chúng trên đất Việt Nam cũng đã dần được hoàn thiện. Ngày 22/3/1897, Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer đã gửi cho Bộ trưởng Bộ thuộc địa Pháp dự án “chương trình hoạt động” trong đó gồm 7 điều khoản để thực hiện công cuộc khai thác thuộc địa một cách toàn vẹn nhất của Pháp tại Việt Nam:
“1. Tổ chức một chính phủ chung cho toàn Đông Dương và tổ chức bộ máy cai trị hành chính riêng cho từng xứ thuộc liên bang.
2. Sửa đổi lại chế độ tài chính, thiết lập một hệ thống thuế khóa mới sao cho phù hợp với yêu cầu của ngân sách, nhưng phải dựa trên cơ sở xã hội cụ thể, và phải chú ý khai thác những phong tục tập quán của dân Đông Dương
3. Chú ý xây dựng thiết bị to lớn cho Đông Dương, như xây dựng hệ thống đường sắt, đường bộ, sông đào, bến cảng… những thứ cần thiết cho việc khai thác.
4. Đẩy mạnh nền sản xuất và thương mại bằng việc phát triển công cuộc thực dân của người Pháp và lao động của người bản xứ.
5. Bảo đảm phòng thủ Đông Dương bằng việc thiết lập những căn cứ của hải quân và phải tổ chức quân đội và hạm đội cho thật vững mạnh.
6. Hoàn thành công cuộc bình định xứ Bắc kỳ, bảo đảm an ninh vùng biên giới Bắc kỳ.
7. Khuếch trương ảnh hưởng của nước Pháp, mở rộng quyền lợi của nước pháp ở vùng Viễn Đông, nhất là ở các nước lân cận.” (trích Đại Cương Lịch sử Việt Nam, tập II, Đinh Xuân Lâm, NXB Giáo Dục).
Có thể nói, chương trình khai thác của Paul Doumer để thi hành ở Đông Dương, chủ yếu là Việt Nam, có mục đích tối thương là biến gấp Đông Dương thành thuộc địa khai khẩn bậc nhất, bảo đảm siêu lợi nhuận cao nhất cho đế quốc Pháp. Sênô (Jean Chesneaux) trong cuốn Đóng góp vào lịch sử dân tộc Việt Nam đã đánh giá cao Paul Doumer: “Chính ông đã đưa chế độ thuộc địa từ giai đoạn kinh nghiệm chủ nghĩa hầu như “thủ công" sang giai đoạn tồ chức hệ thống. Chính ông đã tạo dựng bộ máy thống nhất về bóc lột tài chính và đàn áp chính trị trong thực tế sẽ được duy trì nguyên vẹn đến tận 1945”.
Như vậy, Pháp cần phải đàn áp được những phong trào đấu tranh vũ trang của ta vào cuối thế kỉ thứ XIX đầu thế kỉ XX, hoàn thành công cuộc bình định Việt Nam bằng quân sự và đặt xong bộ máy cai trị tại Việt Nam thì thực dân Pháp mới bắt đầu tiến hành công cuộc khai thác thuộc địa của mình. Nếu như Pháp thực hiện luôn công cuộc khai thác thuộc địa sau khi đánh chiếm thành công nước ta thì có thể công cuộc khai thác sẽ không đạt được mục đích. Không có một bộ máy cai trị với những chính sách bịp bợm, liệu Pháp có thể dễ dàng trấn áp quần chúng? Không thể bình định được những cuộc khởi nghĩa, thì liệu Pháp có đủ lực lượng và của cải để có thể tiến hành công cuộc khai thác của mình? Tất nhiên là không. Một nước tư bản thực dân như Pháp sẽ nhìn rõ những điểm mình cần làm trước khi thực hiện công cuộc khai thác của mình. Mặc dù mang lại những cải cách to lớn về nhiều mặt, song vẫn có những tồn tại mặt hại song song mặt lợi trong thời kì Pháp thuộc. Mặc dù vậy, công cuộc khai thác này chỉ tiến hành được 7 năm thì phải dừng lại vì chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ ở Châu Âu.
Tài liệu tham khảo:
ü Lịch sử việt nam cận hiện đại (1858 – 1975), Hà Minh Hồng, ĐHQGTPHCM, 2005.
ü Việt - Nam thời Pháp đô - hộ, Nguyễn Thế Anh, Thạc sĩ sử học, trưởng ban sử học đại học Văn khoa Saigon, tủ sách sử địa học, Lửa Thiêng xuất bản, 1970.
ü Đại cương Lịch sử Việt Nam, tập II , Đinh Xuân Lâm, NXB Giáo Dục.
ü Internet.