Để tiến hành cuộc chiến tranh 17/2/1979 Trung Quốc đã chuẩn bị kỹ lưỡng huy động một lực lượng không lồ gồm những quân đoàn chủ lực tinh nhuệ, được coi là thiện chiến nhất khi đó. Theo tiết lộ chính thức trên báo chí gần đây thì việc tiến hành cái gọi là “Chiến tranh phản kích tự vệ chống Việt Nam” được quyết định tại Hội nghị Quân ủy Trung ương ngày 7/12/1978 và “Mệnh lệnh triển khai chiến lược” được ban hành vào ngày 8/12 nêu mục đích tiến hành chiến tranh là “để chi viện cuộc đấu tranh chính nghĩa chống Việt Nam xâm lược của nhân dân Campuchia, trừng trị khí thế phản động, kiềm chế hành động xâm lược của Việt Nam, giành hòa bình ổn định ở biên giới nước ta”. Lúc đầu chỉ định sử dụng 6 quân đoàn chủ lực đánh sang một số huyện lỵ biên giới Việt Nam; mục đích ban đầu được đặt ra “dùng 3-5 ngày tiêu diệt 1-2 sư đoàn Việt Nam, đánh nhanh giải quyết nhanh, dập tắt sự hung hăng của Việt Nam”.
Đến ngày 31/12/1978 Quân ủy Trung Quốc lại họp hội nghị tác chiến, quyết định “mở rộng quy mô tác chiến, tăng thêm 3 quân đoàn mục tiêu tấn công cũng đổi từ huyện lỵ thành các tỉnh lỵ biên giới Việt Nam, thời gian tiến hành từ 15-20 ngày tiêu diệt 3 đến 5 sư đoàn Việt Nam, tăng thêm mức độ trừng phạt”.
Theo Nhân dân Nhật báo thực tế Trung Quốc đã huy động 29 sư đoàn bộ binh thuộc 9 quân đoàn chủ lực: cánh quân phía Quảng Tây do Tư lệnh Quân khu Quảng Châu Hứa Thế Hữu chỉ huy gồm các quân đoàn 41, 42, 43, 54, 55 và 50 (thiếu sư 149); cánh phía Vân Nam do Dương Đắc Chí Tư lệnh Quân khu Côn Minh chỉ huy (từ 26/2 thay bằng Phó Tư lệnh Trương Chất Tú), gồm các quân đoàn 11, 13, 14 và sư 149/quân đoàn 50; cộng thêm 2 sư đoàn độc lập của 2 quân khu, 2 sư đoàn pháo mặt đất, 3 sư đoàn pháo cao xạ, 2 sư đoàn bộ đội đường sắt, 2 trung đoàn thông tin, 2 trung đoàn hóa học; 13 sư đoàn cùng 3 trung đoàn độc lập không quân…sẵn sàng đợi lệnh; chưa kể lực lượng biên phòng, dân binh; tổng số quân tham chiến hơn 500 ngàn, số tràn qua biên giới là 202 ngàn. Ngày 12/2/1979, Quân ủy Trung Quốc ra “Mệnh lệnh tác chiến phản kích tự vệ biên giới Trung-Việt, quyết định tấn công vào sáng 17/2. Sáng 17/2.Nhân dân Nhật báo đăng bài “Không thể nhẫn chịu, thật không thể nhẫn chịu – báo cáo từ biên giới Trung-Việt” công bố trước thế giới Trung Quốc đã tấn công Việt Nam.
Đài phát thanh Trung Quốc phát bài với luận điệu lừa bịp về mục đích cuộc chiến tranh: “Chính quyền Việt Nam nhiều lần gây sự ở biên giới, quấy nhiễu nghiêm trọng cuộc sống bình thường và hoạt động sản xuất của dân biên Trung Quốc; Trung Quốc nhiều lần cảnh cáo, nhưng Việt Nam vẫn bỏ ngoài tai, cứ làm theo ý mình. Trong tình thế không thể nhẫn chịu, Trung Quốc buộc phải phát động cuộc chiến tranh phản kích tự vệ để trừng phạt Việt Nam” (!).
Theo một tư liệu được đăng tải trên mạng xã hội Weibo: cuộc chiến tranh này chỉ kéo dài 1 tháng (Trung Quốc tính từ 17/2 đến 16/3/1979), nhưng tổng cộng đã tiêu hao mất 1,06 triệu quả đạn pháo, 23,8 ngàn tấn đạn, 55 triệu viên đạn nhọn, 268 xe quân sự (48 xe tăng) bị phá hủy, hư hỏng; bị chết 8.531 người, bị thương hơn 23.000, bị bắt làm tù binh 238, bình quân mỗi ngày có 1 trung đoàn bị loại khỏi vòng chiến. (Sách “Tổng kết công tác tác chiến phản kích tự vệ chống Việt Nam” do Cục Hậu cần Quân khu Côn Minh biên soạn, dù đã cố giảm thiểu thất bại cũng phải thừa nhận: từ 17/2 đến 16/3/1979, phía Trung Quốc chết 6.954 người, bị thương hơn 14.800).
Thương vong lớn ngoài dự đoán là một trong những nguyên nhân khiến Trung Quốc phải kết thúc sớm cuộc chiến. Trong 2 ngày đầu, Trung Quốc đã mất hơn 4000 quân, đến mức quân y không kịp trở tay, nhiều người bị thương chết cho mất máu vì không được cấp cứu. Theo tài liệu nội bộ của Trung Quốc mới được công bố: bước vào giai đoạn tác chiến giằng co, tỷ lệ thương vong rất cao, thường là 90% đối với các đại đội xung kích, những đại đội này khi rút quân chỉ còn hơn chục người sống sót, mỗi tiểu đội chỉ còn 1-2 người.
“Trận chiến nhục nhã nhất” – là nhan đề bài báo đăng trên mạng “Chiến lược” Trung Quốc (Chinaiiss.com) ngày 12/11/2013. Bài báo kể lại sự kiện toàn bộ đại đội 8, trung đoàn 448, sư đoàn 150, quân đoàn 50 đầu hàng tập thể khi bị quân đội Việt Nam (thực ra là Tiểu đoàn tự vệ Khu Gang thép Thái Nguyên) bao vây, cô lập. Bài báo cho rằng đây là vết nhơ, sự kiện ô nhục trong lịch sử quân đội Trung Quốc. Sau khi được Việt Nam trao trả, những cán bộ, binh sĩ này đã bị trừng phạt nghiêm khắc: tất cả đều bị kỷ luật, riêng đại đội trưởng Lý Hòa Bình và chính trị viên Phùng Tăng Mẫn bị phạt tù “mức 10 năm trở lên”. Quân đoàn 50 cũng bị thẳng tay trừng trị: 1 phó tư lệnh bị cách chức, 1 phó tư lệnh khác bị giáng chức, 1 phó chính ủy bị cảnh cáo. Sau đó, vào năm 1985, quân đoàn 50 và sư đoàn 150 bị xóa phiên hiệu khỏi biên chế quân đội Trung Quốc.
Báo chí Trung Quốc cũng vạch trần những thủ đoạn tuyên truyền dối trá của chỉ huy quân đội trong thời kỳ chiến tranh. Ví dụ quân đoàn 42 đề nghị Quân ủy phong danh hiệu “Xe tăng anh hùng” cho chiếc tăng cùng 4 lính của trung đoàn xe tăng được cho là “chiến đấu ngoan cường, anh dũng hi sinh” khi đánh vào thị xã Cao Bằng, thậm chí Xưởng phim Bát Nhất cũng vội làm một bộ phim thời sự tài liệu ca ngợi họ. Nào ngờ, ít ngày sau thì một lính của chiếc tăng này bị bắt đã lên đài Việt Nam phát tiếng Trung Quốc nhắn tin báo vẫn bình an. Vụ này khiến Tổng bộ Chính trị cảm thấy mất mặt, phải ra công văn nghiêm khắc phê phán quân đoàn 42 và nhắc nhở các đơn vị “phải chú ý cẩn trọng trong tuyên truyền sự tích anh hùng” (!).
“Một cuộc chiến tranh vô nghĩa, kỳ quặc” - là tiêu đề bài báo của một cựu binh đăng trên báo điện tử Thiết Huyết (Tiexue.net) ngày 18/7/2013. Tác giả viết: “Chiến tranh Triều Tiên chúng ta đạt được lợi ích là kìm chế quân Mỹ ở phía Nam vĩ tuyến 38; Chiến tranh Giải phóng, chúng ta giải phóng được Trung Quốc Đại lục. Tôi thực sự không hiểu trong cuộc chiến tranh kỳ quặc năm 1979, rốt cục Trung Quốc đạt được cái gì? Chả được gì cả!”.
Dưới tiêu đề “Chiến tranh phản kích tự vệ chống Việt Nam – một cuộc chiến tranh gây tranh cãi” mạng “Tianya.cn” ngày 6/4/2012 đã cho đăng bài của tác giả “Tây Hồ kiếm khách”. Tác giả tự xưng là một cựu binh đã tham gia cuộc chiến tranh 17/2/1979 này viết: “Chiến tranh phản kích tự vệ chống Việt Nam là một cuộc chiến có vấn đề nghiêm trọng về cả hoạch định lẫn chỉ huy, cần phải nhìn nhận lại…Cuộc chiến đó thương vong quá nhiều.
Quân đội ta (tức Trung Quốc) không thể hiện được ưu thế về trang bị và chiến thuật; hệ thống hậu cần và tiếp tế hỗn loạn, thiếu sự hiệp đồng giữa bộ binh – xe tăng và mặt đất - trên không, không quân và tên lửa chiến lược không tham chiến; vũ khí nhẹ quân lính sử dụng quá cũ, không thực hiện được áp chế hỏa lực…Sĩ quan chỉ huy chiến trường hầu như không biết tác chiến hiệp đồng binh chủng, bộ thống soái cao nhất thì chiến lược hỗn loạn; chiến tranh không đạt được mục đích “trừng phạt Việt Nam, phá hủy tiềm lực và tài nguyên, sát thương quân chủ lực và chiến lược quân sự”, cũng không đạt mục tiêu chiến lược chính trị “làm Việt Nam tan rã, giúp chính phủ mới thân Hoa lên cầm quyền”.
Tuy nhiên mục tiêu chính trị quan trọng trong nước là giải quyết vấn đề quyền chỉ huy quân đội thì đã được giải quyết thuận lợi”. Sau trận chiến, Đặng Tiểu Bình đã thành công trong việc giành lại quyền hành từ hệ thống đảng – chính – quân, Hoa Quốc Phong bị ép phải xuống đài. Nhưng từ đây cuộc chiến tranh biên giới kéo dài 10 năm lại sẽ mở màn biên giới Việt– Trung lại trở thành thao trường luyện binh các quân đoàn chủ lực lần lượt ra luân chiến. Trên thế giới có bao nhiêu quốc gia lại sử dụng chiến tranh làm thao trường ? Đó không phải là một trò đùa hay sao ?
Tác giả nêu lên “11 vấn đề bên trong cuộc chiến tranh cần được làm sáng tỏ”. Trong đó có 7 vấn đề quan trọng sau:
“1. Về nguyên nhân gây chiến tranh, đến nay vẫn chưa được giải thích công khai, chính thức và khiến người ta tin phục. Thậm chí Trương Thắng, Cục trưởng Cục Tác chiến (con trai nguyên Bộ trưởng Quốc phòng Trương Ái Bình) cũng thừa nhận trong hai cuốn sách của ông “Đi ra từ chiến tranh” và “Đặc công cuối cùng náu mình ở Đại lục”: về nguyên nhân của cuộc chiến tranh ấy ngay Bộ trưởng Quốc phòng khi đó cũng không rõ vì sao ta phải tiến hành”.
2. Mục đích chiến lược cơ bản không đạt được. Trong cuộc chiến tranh đó, chúng ta (Trung Quốc) chiếm ưu thế về cả binh lực lẫn hỏa lực, nhưng chúng ta không đạt được mục đích chiến lược là tiêu diệt 2 sư đoàn chủ lực 316A và 316B của Việt Nam.
3. Trang bị tiên tiến xếp xó. Khi đó ta có các trang bị hiện đại máy bay, xe tăng, tên lửa, nhưng do những người chỉ huy không biết tác chiến hiệp đồng nên các trang bị đó thành đồ bỏ. Vốn ra một chiếc máy bay có thể giải quyết được vấn đề phong tỏa, nhưng phải dùng đến cả binh đoàn, đi ngược lại quan niệm giá trị trong chiến tranh.
4. Tấn công không có bài bản. Vừa khai chiến, bộ đội đã ào ạt kéo vào. Khi tôi (tác giả Thường Thanh) ở điểm cao 796, nhìn xa nhìn gần, khắp mặt đất toàn là lính ta. Khi đó tôi đã phẫn nộ nói với Tham mưu trưởng: “Vào trong xóm tìm một đứa trẻ cũng không chỉ huy tồi như thế”. Một quả pháo, một loạt đạn của đối phương cũng quét sạch cả một mảng lớn lính ta. Ở mặt trận Cao Bằng lính bộ binh khi ngồi trên xe tăng để khỏi ngã đã dùng dây buộc mình vào tháp pháo và xe; kết quả khi xe bị bắn cháy, những lính này đều bị chết thiêu vì không thoát kịp. Có chiếc xe tăng bị phá hủy bên trên còn buộc chặt 4-5 người lính bộ binh.
5. Hiện tượng tự thương trên chiến trường liên tiếp xảy ra. Để lẩn tránh chiến tranh, một số binh lính sau khi vượt biên sang nước khác đã tự bắn vào chân mình. Có một đại đội vừa đụng phải khoảng chừng hơn 20 bộ đội Việt Nam thì viên chỉ huy đã lập tức rời bỏ hàng ngũ chạy trốn về, đã vậy lại còn tự khiến mình bị thương để được đưa vào bệnh viên, binh lính dưới quyền anh ta thì bị diệt sạch.
6. Trận chiến này của không hề gây dựng được một chút “uy danh” nào, ngược lại còn bộc lộ ra rất nhiều vấn đề. Bộ trưởng Quốc phòng Đài Loan đã từng nói: “Nhìn vào biểu hiện của quân đội Trung Cộng tại chiến trường Việt Nam, việc bảo vệ Đài Loan của chúng ta là không thành vấn đề!”.
7. Tiêu chuẩn chế độ cho lính bị thương quá lạc hậu. Sau khi bị thương, tôi được cấp 15 tệ, tương đương với thời kháng Nhật. Năm 2010, sau 31 năm, tôi nhận được 300 tệ tiền trợ cấp thương tật, bình quân 30 tệ/năm. Tiền tuất cho lính tử trận chỉ tương đương giá một con lợn :
300 tệ….”.
Tham gia cuộc chiến tranh phi nghĩa nên bị xã hội lãng quên chính là nguyên nhân khiến mấy năm gần đây, cứ vào dịp 17/2 là hàng chuc ngàn cựu binh từng tham gia cuộc chiến tranh năm xưa lại kéo về Bắc Kinh, đến trụ sở Quân ủy biểu tình đòi quyền lợi, đòi được đảm bảo mức sống tối thiểu…
Đến ngày 31/12/1978 Quân ủy Trung Quốc lại họp hội nghị tác chiến, quyết định “mở rộng quy mô tác chiến, tăng thêm 3 quân đoàn mục tiêu tấn công cũng đổi từ huyện lỵ thành các tỉnh lỵ biên giới Việt Nam, thời gian tiến hành từ 15-20 ngày tiêu diệt 3 đến 5 sư đoàn Việt Nam, tăng thêm mức độ trừng phạt”.
Theo Nhân dân Nhật báo thực tế Trung Quốc đã huy động 29 sư đoàn bộ binh thuộc 9 quân đoàn chủ lực: cánh quân phía Quảng Tây do Tư lệnh Quân khu Quảng Châu Hứa Thế Hữu chỉ huy gồm các quân đoàn 41, 42, 43, 54, 55 và 50 (thiếu sư 149); cánh phía Vân Nam do Dương Đắc Chí Tư lệnh Quân khu Côn Minh chỉ huy (từ 26/2 thay bằng Phó Tư lệnh Trương Chất Tú), gồm các quân đoàn 11, 13, 14 và sư 149/quân đoàn 50; cộng thêm 2 sư đoàn độc lập của 2 quân khu, 2 sư đoàn pháo mặt đất, 3 sư đoàn pháo cao xạ, 2 sư đoàn bộ đội đường sắt, 2 trung đoàn thông tin, 2 trung đoàn hóa học; 13 sư đoàn cùng 3 trung đoàn độc lập không quân…sẵn sàng đợi lệnh; chưa kể lực lượng biên phòng, dân binh; tổng số quân tham chiến hơn 500 ngàn, số tràn qua biên giới là 202 ngàn. Ngày 12/2/1979, Quân ủy Trung Quốc ra “Mệnh lệnh tác chiến phản kích tự vệ biên giới Trung-Việt, quyết định tấn công vào sáng 17/2. Sáng 17/2.Nhân dân Nhật báo đăng bài “Không thể nhẫn chịu, thật không thể nhẫn chịu – báo cáo từ biên giới Trung-Việt” công bố trước thế giới Trung Quốc đã tấn công Việt Nam.
Đài phát thanh Trung Quốc phát bài với luận điệu lừa bịp về mục đích cuộc chiến tranh: “Chính quyền Việt Nam nhiều lần gây sự ở biên giới, quấy nhiễu nghiêm trọng cuộc sống bình thường và hoạt động sản xuất của dân biên Trung Quốc; Trung Quốc nhiều lần cảnh cáo, nhưng Việt Nam vẫn bỏ ngoài tai, cứ làm theo ý mình. Trong tình thế không thể nhẫn chịu, Trung Quốc buộc phải phát động cuộc chiến tranh phản kích tự vệ để trừng phạt Việt Nam” (!).
Theo một tư liệu được đăng tải trên mạng xã hội Weibo: cuộc chiến tranh này chỉ kéo dài 1 tháng (Trung Quốc tính từ 17/2 đến 16/3/1979), nhưng tổng cộng đã tiêu hao mất 1,06 triệu quả đạn pháo, 23,8 ngàn tấn đạn, 55 triệu viên đạn nhọn, 268 xe quân sự (48 xe tăng) bị phá hủy, hư hỏng; bị chết 8.531 người, bị thương hơn 23.000, bị bắt làm tù binh 238, bình quân mỗi ngày có 1 trung đoàn bị loại khỏi vòng chiến. (Sách “Tổng kết công tác tác chiến phản kích tự vệ chống Việt Nam” do Cục Hậu cần Quân khu Côn Minh biên soạn, dù đã cố giảm thiểu thất bại cũng phải thừa nhận: từ 17/2 đến 16/3/1979, phía Trung Quốc chết 6.954 người, bị thương hơn 14.800).
Thương vong lớn ngoài dự đoán là một trong những nguyên nhân khiến Trung Quốc phải kết thúc sớm cuộc chiến. Trong 2 ngày đầu, Trung Quốc đã mất hơn 4000 quân, đến mức quân y không kịp trở tay, nhiều người bị thương chết cho mất máu vì không được cấp cứu. Theo tài liệu nội bộ của Trung Quốc mới được công bố: bước vào giai đoạn tác chiến giằng co, tỷ lệ thương vong rất cao, thường là 90% đối với các đại đội xung kích, những đại đội này khi rút quân chỉ còn hơn chục người sống sót, mỗi tiểu đội chỉ còn 1-2 người.
“Trận chiến nhục nhã nhất” – là nhan đề bài báo đăng trên mạng “Chiến lược” Trung Quốc (Chinaiiss.com) ngày 12/11/2013. Bài báo kể lại sự kiện toàn bộ đại đội 8, trung đoàn 448, sư đoàn 150, quân đoàn 50 đầu hàng tập thể khi bị quân đội Việt Nam (thực ra là Tiểu đoàn tự vệ Khu Gang thép Thái Nguyên) bao vây, cô lập. Bài báo cho rằng đây là vết nhơ, sự kiện ô nhục trong lịch sử quân đội Trung Quốc. Sau khi được Việt Nam trao trả, những cán bộ, binh sĩ này đã bị trừng phạt nghiêm khắc: tất cả đều bị kỷ luật, riêng đại đội trưởng Lý Hòa Bình và chính trị viên Phùng Tăng Mẫn bị phạt tù “mức 10 năm trở lên”. Quân đoàn 50 cũng bị thẳng tay trừng trị: 1 phó tư lệnh bị cách chức, 1 phó tư lệnh khác bị giáng chức, 1 phó chính ủy bị cảnh cáo. Sau đó, vào năm 1985, quân đoàn 50 và sư đoàn 150 bị xóa phiên hiệu khỏi biên chế quân đội Trung Quốc.
Báo chí Trung Quốc cũng vạch trần những thủ đoạn tuyên truyền dối trá của chỉ huy quân đội trong thời kỳ chiến tranh. Ví dụ quân đoàn 42 đề nghị Quân ủy phong danh hiệu “Xe tăng anh hùng” cho chiếc tăng cùng 4 lính của trung đoàn xe tăng được cho là “chiến đấu ngoan cường, anh dũng hi sinh” khi đánh vào thị xã Cao Bằng, thậm chí Xưởng phim Bát Nhất cũng vội làm một bộ phim thời sự tài liệu ca ngợi họ. Nào ngờ, ít ngày sau thì một lính của chiếc tăng này bị bắt đã lên đài Việt Nam phát tiếng Trung Quốc nhắn tin báo vẫn bình an. Vụ này khiến Tổng bộ Chính trị cảm thấy mất mặt, phải ra công văn nghiêm khắc phê phán quân đoàn 42 và nhắc nhở các đơn vị “phải chú ý cẩn trọng trong tuyên truyền sự tích anh hùng” (!).
“Một cuộc chiến tranh vô nghĩa, kỳ quặc” - là tiêu đề bài báo của một cựu binh đăng trên báo điện tử Thiết Huyết (Tiexue.net) ngày 18/7/2013. Tác giả viết: “Chiến tranh Triều Tiên chúng ta đạt được lợi ích là kìm chế quân Mỹ ở phía Nam vĩ tuyến 38; Chiến tranh Giải phóng, chúng ta giải phóng được Trung Quốc Đại lục. Tôi thực sự không hiểu trong cuộc chiến tranh kỳ quặc năm 1979, rốt cục Trung Quốc đạt được cái gì? Chả được gì cả!”.
Dưới tiêu đề “Chiến tranh phản kích tự vệ chống Việt Nam – một cuộc chiến tranh gây tranh cãi” mạng “Tianya.cn” ngày 6/4/2012 đã cho đăng bài của tác giả “Tây Hồ kiếm khách”. Tác giả tự xưng là một cựu binh đã tham gia cuộc chiến tranh 17/2/1979 này viết: “Chiến tranh phản kích tự vệ chống Việt Nam là một cuộc chiến có vấn đề nghiêm trọng về cả hoạch định lẫn chỉ huy, cần phải nhìn nhận lại…Cuộc chiến đó thương vong quá nhiều.
Quân đội ta (tức Trung Quốc) không thể hiện được ưu thế về trang bị và chiến thuật; hệ thống hậu cần và tiếp tế hỗn loạn, thiếu sự hiệp đồng giữa bộ binh – xe tăng và mặt đất - trên không, không quân và tên lửa chiến lược không tham chiến; vũ khí nhẹ quân lính sử dụng quá cũ, không thực hiện được áp chế hỏa lực…Sĩ quan chỉ huy chiến trường hầu như không biết tác chiến hiệp đồng binh chủng, bộ thống soái cao nhất thì chiến lược hỗn loạn; chiến tranh không đạt được mục đích “trừng phạt Việt Nam, phá hủy tiềm lực và tài nguyên, sát thương quân chủ lực và chiến lược quân sự”, cũng không đạt mục tiêu chiến lược chính trị “làm Việt Nam tan rã, giúp chính phủ mới thân Hoa lên cầm quyền”.
Tuy nhiên mục tiêu chính trị quan trọng trong nước là giải quyết vấn đề quyền chỉ huy quân đội thì đã được giải quyết thuận lợi”. Sau trận chiến, Đặng Tiểu Bình đã thành công trong việc giành lại quyền hành từ hệ thống đảng – chính – quân, Hoa Quốc Phong bị ép phải xuống đài. Nhưng từ đây cuộc chiến tranh biên giới kéo dài 10 năm lại sẽ mở màn biên giới Việt– Trung lại trở thành thao trường luyện binh các quân đoàn chủ lực lần lượt ra luân chiến. Trên thế giới có bao nhiêu quốc gia lại sử dụng chiến tranh làm thao trường ? Đó không phải là một trò đùa hay sao ?
Tác giả nêu lên “11 vấn đề bên trong cuộc chiến tranh cần được làm sáng tỏ”. Trong đó có 7 vấn đề quan trọng sau:
“1. Về nguyên nhân gây chiến tranh, đến nay vẫn chưa được giải thích công khai, chính thức và khiến người ta tin phục. Thậm chí Trương Thắng, Cục trưởng Cục Tác chiến (con trai nguyên Bộ trưởng Quốc phòng Trương Ái Bình) cũng thừa nhận trong hai cuốn sách của ông “Đi ra từ chiến tranh” và “Đặc công cuối cùng náu mình ở Đại lục”: về nguyên nhân của cuộc chiến tranh ấy ngay Bộ trưởng Quốc phòng khi đó cũng không rõ vì sao ta phải tiến hành”.
2. Mục đích chiến lược cơ bản không đạt được. Trong cuộc chiến tranh đó, chúng ta (Trung Quốc) chiếm ưu thế về cả binh lực lẫn hỏa lực, nhưng chúng ta không đạt được mục đích chiến lược là tiêu diệt 2 sư đoàn chủ lực 316A và 316B của Việt Nam.
3. Trang bị tiên tiến xếp xó. Khi đó ta có các trang bị hiện đại máy bay, xe tăng, tên lửa, nhưng do những người chỉ huy không biết tác chiến hiệp đồng nên các trang bị đó thành đồ bỏ. Vốn ra một chiếc máy bay có thể giải quyết được vấn đề phong tỏa, nhưng phải dùng đến cả binh đoàn, đi ngược lại quan niệm giá trị trong chiến tranh.
4. Tấn công không có bài bản. Vừa khai chiến, bộ đội đã ào ạt kéo vào. Khi tôi (tác giả Thường Thanh) ở điểm cao 796, nhìn xa nhìn gần, khắp mặt đất toàn là lính ta. Khi đó tôi đã phẫn nộ nói với Tham mưu trưởng: “Vào trong xóm tìm một đứa trẻ cũng không chỉ huy tồi như thế”. Một quả pháo, một loạt đạn của đối phương cũng quét sạch cả một mảng lớn lính ta. Ở mặt trận Cao Bằng lính bộ binh khi ngồi trên xe tăng để khỏi ngã đã dùng dây buộc mình vào tháp pháo và xe; kết quả khi xe bị bắn cháy, những lính này đều bị chết thiêu vì không thoát kịp. Có chiếc xe tăng bị phá hủy bên trên còn buộc chặt 4-5 người lính bộ binh.
5. Hiện tượng tự thương trên chiến trường liên tiếp xảy ra. Để lẩn tránh chiến tranh, một số binh lính sau khi vượt biên sang nước khác đã tự bắn vào chân mình. Có một đại đội vừa đụng phải khoảng chừng hơn 20 bộ đội Việt Nam thì viên chỉ huy đã lập tức rời bỏ hàng ngũ chạy trốn về, đã vậy lại còn tự khiến mình bị thương để được đưa vào bệnh viên, binh lính dưới quyền anh ta thì bị diệt sạch.
6. Trận chiến này của không hề gây dựng được một chút “uy danh” nào, ngược lại còn bộc lộ ra rất nhiều vấn đề. Bộ trưởng Quốc phòng Đài Loan đã từng nói: “Nhìn vào biểu hiện của quân đội Trung Cộng tại chiến trường Việt Nam, việc bảo vệ Đài Loan của chúng ta là không thành vấn đề!”.
7. Tiêu chuẩn chế độ cho lính bị thương quá lạc hậu. Sau khi bị thương, tôi được cấp 15 tệ, tương đương với thời kháng Nhật. Năm 2010, sau 31 năm, tôi nhận được 300 tệ tiền trợ cấp thương tật, bình quân 30 tệ/năm. Tiền tuất cho lính tử trận chỉ tương đương giá một con lợn :
300 tệ….”.
Tham gia cuộc chiến tranh phi nghĩa nên bị xã hội lãng quên chính là nguyên nhân khiến mấy năm gần đây, cứ vào dịp 17/2 là hàng chuc ngàn cựu binh từng tham gia cuộc chiến tranh năm xưa lại kéo về Bắc Kinh, đến trụ sở Quân ủy biểu tình đòi quyền lợi, đòi được đảm bảo mức sống tối thiểu…